Công sản có vai trò rất quan trọng: nó là nguồn tài sản lớn của mọi quốc
gia, là yếu tố đảm bảo môi trường cho cuộc sống của con người; là yếu tố cơ
bản của quá trình sản xuất và quản lý xã hội; là nguồn lực tài chính tiềm năng
cho đầu tư phát triển, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy,
việc quản lý tình hình sử dụng và khai thác nhằm phát huy vai trò của to lớn của
công sản có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
các quốc gia trên thế giới. Mặt khác, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu của mọi
Tài sản công, Vì vậy Nhà nước phải thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối
với Tài sản công nhằm sử dụng, bảo tồn, phát triển nguồn Tài sản công tiết
kiệm, hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi
trường, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân
dân. Để hiểu rõ về công sản và nội dung quản lý công sản, nội dung đề cập
trong chương này bao gồm những vấn đề sau:
1. KHÁI NIỆM VỀ CÔNG SẢN.
1.1. Tài sản và quan hệ tài sản.
1.1.1.Khái niệm chung về tài sản.
Lịch sử phát triển xâ hội loài người là lịch sử đấu tranh và chinh phục
thiên nhiên nhằm phục vụ cho việc tồn tại và phát triển của loài người. Trong
quá trình lịch sử đó, con người một mặt phải dựa vào thiên nhiên để tồn tại, mặt
khác với quá trình lao động, con người đã tạo ra những sản phẩm lao động
nhằm phục vụ cho việc tồn tại và phát triển của mình. Cùng với sự phát triển
của xã hội, những tài sản là của cải vật chất do con người khai thác từ thiên
nhiên và những sản phẩm do con người sản xuất ra ngày càng phong phú và đa
dạng. Vậy tài sản là gì ?
Hiện nay, tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau mà quan niệm về tài sản cũng
không hoàn toàn giống nhau. Có những quan niệm chủ yếu hiện nay về tài sản
như sau:
- Có quan niệm cho rằng: tài sản là toàn bộ tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt
152
có giá trị do các chủ thể xã hội năm giữ và chi phối như: toàn bộ các tư liệu vật
chất tồn tại trong tự nhiên và do con người tạo ra.
- Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam- Nhà xuất bản Bách Khoa Hà Nội – 2005,
tập 4 trang 32 : “Tài sản: thuật ngữ kế toán kinh doanh chỉ tất cả những gì có giá
trị tiền tệ thuộc sở hữu của một của một đơn vị hoặc của Nhà nước; có thể được
dùng để trả nợ, sản xuất ra hàng hoá hay tạo ra lợi nhuận bằng cách nào đó. Một
tài sản có ba đặc tính không thể thiếu: lợi nhuận kinh tế oó thể xảy ra trong
tương lai; do một thực thể hợp pháp kiểm soát; thu được kết quả ngay từ hợp
đồng kinh doanh hoặc giao dịch đầu tiên”
- Theo điều 163 – Bộ luật dân sự năm 2005 của Việt Nam đã định nghĩa: Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
Như vậy, chúng ta có thể đi đến kết luận là : là tài sản phải là:
Vật có thực (tiền và giấy tờ trị giá được bằng tiền). Nó phản ánh thực thể
của tài sản vận động trong nền kinh tế và tác động vào các thể nhân và
pháp nhân trong nền kinh tế.
Quyền lợi và nghĩa vụ dân sự, địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân và
các chủ thể khác gọi là quan hệ tài sản trong giao dịch dân sự, nó cũng
chính là chuẩn mực pháp lý trong cách ứng xử của các chủ thể trong giao
dịch dân sự về tài sản.
1.1.2. Quan hệ về tài sản.
Tài sản vận động trong nền kinh tế - xã hội không ngừng, do vậy ở các
quốc gia khác nhau, sẽ có những quan niệm khác nhau về tài sản. Hiện nay, ở
Việt Nam các nhà nghiên cứu cho rằng: quan hệ tài sản là quan hệ xã hội có nội
dung kinh tế. Đó là mối quan hệ về quyền sở hữu tài sản bao gồm quyền chiếm
hữu quyền sử dụng quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của
pháp luật. Trong đó:
- Quyền chiếm hữu: là quyền nắm giữ, quản lý tài sản và bao gồm:
Chiếm hữu có căn cứ pháp luật: là việc chiếm hữu tài sản trong các
trường hợp sau đây:
1. Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
153
2. Người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản;
3. Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự
phù hợp với quy định của pháp luật;
4. Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai
là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù
hợp với các điều kiện do pháp luật quy định;
5. Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc
phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định;
Các trường hợp khác do pháp luật quy định (Chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình, Chiếm hữu liên tục, Chiếm hữu công khai)
- Quyền sử dụng: là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ
tài sản và bao gồm:.
- Quyền sử dụng của chủ sở hữu: Trong trường hợp chủ sở hữu thực hiện
quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình thì chủ sở hữu được khai thác
công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo ý chí của mình nhưng không
được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Quyền sử dụng của người không phải là chủ sở hữu: là quyền sử dụng tài
sản có thể được chuyển giao cho người khác thông qua hợp đồng hoặc theo quy
định của pháp luật. Người không phải là chủ sở hữu có quyền sử dụng tài sản
đúng tính năng, công dụng, đúng phương thức.
Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình cũng có
quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo quy định của
pháp luật.
1.􀀀.􀀀. Quyền định đoạt: là quyền chuyển giao, quyền sở hữu tài sản
hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó. Trong đó bao gồm:
Quyền định đoạt của chủ sở hữu: Chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng
cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù
hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản.
Quyền định đoạt của người không phải là chủ sở hữu: Người không phải
154
là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo uỷ quyền của chủ sở
hữu hoặc theo quy định của pháp luật. Người được chủ sở hữu uỷ quyền định
đoạt tài sản phải thực hiện việc định đoạt phù hợp với ý chí, lợi ích của chủ sở
hữu.
Trong đó, quyền chiếm hữu là quyền sở hữu tài sản, chính quan hệ này
quyết định các quan hệ khác, quyết định quyền sử dụng định đoạt quyền luân
chuyển tài sản, quyền thừa kế tài sản
1.1.3. Phân loại tài sản.
Hiện nay, ở các nước khác nhau việc phân loại tài sản có thể dựa trên
nhiều tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, dù dựa vào tiêu chí nào khi phân loại tài
sản đều phải phản ánh hình thức biểu hiện của nó và các quyền trong giao dịch
tài sản theo luật định.Dựa vào những tiêu chí chung nhất, việc phân loại tài sản
hiện nay có thể bao gồm những cách phân loại sau:
- Căn cứ theo hình thức sở hữu tài sản:
Toàn bộ tài sản, nếu dựa vào hình thức sở hữu có thể tiến hành phân loại
tài sản như sau:
- Tài sản quốc gia: tất cả các tài sản (dù tài sản đó được biểu hiện dưới hình
thức nào) thuộc quyền sở hữu của quốc gia đều có thể gọi là tài sản quốc gia.
- Tài sản tập thể và tài sản của cộng đồng.
- Tài sản thuộc sở hữu của nhà nước.
- Tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
- Tài sản của các tổ chức xã hội.
- Tài sản tư nhân hay hộ gia đình.
Với việc phân loại tài sản theo cách này cho thấy hình thức biểu hiện của
cơ cấu chung về tài sản trong một quốc gia. Tuy nhiên, trong tài sản quốc gia có
nhiều loại tài sản không thể xác định được giá trị của những nguồn lợi từ sông,
hồ, thềm lục địa...nên khó có thể tính toán chính xác tổng giá trị tài sản được.
- Căn cứ theo mục đích sử dụng của tài sản.
Dựa vào mục đích sử dụng của tài sản trong đời sống xã hội, có thể tiến
hành phân loại tài sản như sau:
155
- Tài sản là tư liệu sản xuất
- Tài sản là tư liệu tiêu dùng.
Việc phân loại tài sản theo cách này phản ánh cơ cấu tiêu dùng tài sản
trong xã hội, đặc biệt đối với các nước chậm phát triển, tài sản là tư liệu sản
xuất phải chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản. Có như vậy mới thúc đẩy sản
xuất phát triển và tạo tiền đề cho việc nâng cao đời sống nhân dân và phúc lợi
xã hội.
- Căn cứ theo theo tính chất hoạt động của tài sản.
Căn cứ theo tính chất hoạt động của tài sản, việc phân loại tài sản bao gồm:
- Tài sản đặc biệt (tài sản không thể thay thế như đất đai, công trình ...)
- Tài sản cùng loại (tài sản có thể thay thế)
- Tài sản có thể chia được và tài sản không thể chia được.
Chú ý: Tài sản chia được là tài sản khi bị phân chia vẫn giữ nguyên tính chất và
tính năng sử dụng ban đầu, và ngược lại tài sản không chia được là tài sản khi bị
phân chia thì không giữ nguyên được tính chất và tính năng sử dụng ban đầu.
Khi cần phân chia, tài sản không chia được thì phải trị giá thành tiền để chia.
Việc phân loại theo tiêu chí này phản ánh cơ cấu của những tài sản gắn
liền với giá trị sử dụng ban đầu của nó. Do vậy, trong quản lý và giao dịch dân
sự những tài sản này mang tính đặc thù theo mục đích sử dụng.
- Căn cứ theo thời hạn sử dụng.
Căn cứ theo tthời hạn sử dụng của tài sản, tài sản được phân loại như
sau:
- Tài sản có thể sử dụng vĩnh viễn không mất đi (đất đai, thềm lục địa...)
- Tài sản có thời hạn sử dụng nhất định (là những loại tài sản sẽ bị hao mòn
hoặc hư hỏng sau một thời gian nhất định).
Như vậy có thể nói, việc phân loại tài sản không chỉ có ý nghĩa to lớn về
lý luận, trên thực tế, việc phân loại luôn gắn liền với việc quản lý và thực hiện
những giao dịch về tài sản trong xã hội.
1. 2. Khái niệm về công sản.
1.2.1. Khái niệm về công sản.
156
Bất cứ một quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển đều phải dựa vào một
trong các nguồn nội lực của mình là tài sản quốc gia. Đó là tất cả những tài sản
do các thế hệ thành viên của quốc gia tạo ra hoặc thu nạp được và các tài sản do
thiên nhiên ban tặng con người. Trong phạm vi một đất nước, tài sản quốc gia
có thể thuộc sở hữu riêng của từng thành viên hoặc nhóm thành viên và có thể là
sở hữu chung của tất cả thành viên trong cộng đồng quốc gia. Nhà nước là chủ
sở hữu đối với những tài sản quốc gia thuộc sở hữu chung của tất cả thành viên
(thường gọi là công sản).
Tuỳ theo những cách tiếp cận khác nhau mà có nhiều cách hiểu khác
nhau về công sản. Một trong những khái niệm được nhiều người chấp nhận là:
Công sảnlà nguồn của cải vật chất nguyên khai được hình thành, tồn tại trong
tự nhiên hoặc do con người sáng tạo ra mà quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt thuộc về Nhà nước.
một số nước phát triển như Vương quốc Anh): công sản là tài sản nhà
nước. Công sản là một bộ phận hết sức quan trọng trong tổng số tài sản quốc
gia. Giá trị và số lượng công sản lớn hay nhỏ là tuỳ thuộc vào đặc trưng quan hệ
sản xuất của các hình thái kinh tế xã hội ở mỗi giai đoạn của từng nước. Riêng ở
Cộng hoà Pháp: công sản là tài sản quốc gia được hiểu là toàn bộ tài sản và
quyền hạn đối với động sản và bất động sản thuộc về Nhà nước.
ở Việt Nam: Trong các quy định của pháp luật cũng như trong thuật ngữ
Từ điểm chưa có khái niệm về công sản. Tại Điều 17 Hiến pháp năm 1992 đã ghi
rõ: “Đất đai, rừng, núi, sông, hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn
lợi vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn do Nhà nước đầu tư vào xí
nghiệp, công trình thuộc các ngành, lĩnh vực kinh tế, văn hoá xã hội, khoa học,
kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật
quy định là của Nhà nước đều thuộc sở hữu toàn dân”.
Để cụ thể hoá quy định nêu trên, tại Điều 200 của Bộ Luật Dân sự năm
2005 đã quy định: “Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước bao gồm đất đai,
rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ,
nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục
157
địa và vùng trời, phần vốn do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình
thuộc các ngành, lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại
giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác do pháp luật quy định”.
Tiếp đó tại các Điều 239, 240, 241, 644 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 đã
quy định cụ thể các tài sản khác thuộc sở hữu nhà nước bao gồm:
- Vật vô chủ là vật mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với vật đó. Người
phát hiện vật vô chủ là bất động sản thì bất động sản đó thuộc Nhà nước.
- Vật bị chôn dấu, chìm đắm được tìm thấy mà không có hoặc không xác định
được ai là chủ sở hữu thì sau khi trừ đi chi phí tìm kiếm, bảo quản, quyền sở
hữu đối với vật đó được xác định theo những quy định của Pháp luật.
- Trong trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có
nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại
sau khi thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc
Nhà nước.
Ngoài các tài sản nêu trên, Tài sản thuộc hình thức sở hữu Nhà nước còn
bao gồm:
- Tài sản do tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hiến, biếu, tặng, cho, đóng
góp, giao lại cho Nhà nước, tài sản viện trợ của các tổ chức Chính phủ, phi
Chính phủ.
- Tang vật, phương tiện vi phạm pháp luật bị tịch thu sung quỹ nhà nước.
- Tài sản dự trữ của Nhà nước.
- Tài sản Nhà nước giao cho các công ty Nhà nước quản lý và vốn Nhà nước
đầu tư vào các doanh nghiệp khác thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp,
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Hợp tác xã.
Từ những căn cứ pháp luật hiện hành, chúng ta có thể khẳng định rằng:
Công sản là những tài sản được đầu tư, mua sắm từ nguồn ngân sách Nhà nước
hoặc có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước, tài sản được xác lập quyền sở hữu
nhà nước theo quy định của pháp luật, tài sản của các chương trình, dự án kết
thúc chuyển giao, đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách
Nhà nước, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự
158
nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời.
Công sản chiếm trong tổng số tài sản quốc gia lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào
quan hệ sản xuất đặc trưng của xã hội ở các giai đoạn lịch sử. Trong thời kỳ quá
độ đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, các nhân tố của Chủ nghĩa xã hội dần
dần hình thành và phát triển nhằm đạt tới mục tiêu xây dựng thành công Chủ
nghĩa xã hội; Đảng ta thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
nhằm giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn nhân lực bên trong
và bên ngoài để nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống nhân
dân. Khu vực kinh tế Nhà nước, bao gồm cả tài sản thuộc sở hữu Nhà nước,
đóng vai trò chủ đạo, từng bước phát triển và hoàn thiện trở thành nhân tốt kinh
tế của Chủ nghĩa xã hội.
1.2.2. Đặc điểm của công sản.
Khái niệm nêu trên về công sản đã đưa ra những đặc trưng về công sản
đó là:
- Mọi chế độ xã hội khác nhau đều tồn tại công sản. Trong các hình thái kinh tế
- xã hội, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu
thì công sản chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng tài sản quốc gia, còn trong chế
độ Xã hội chủ nghĩa thì công sản do Nhà nước là chủ sở hữu, và chiếm phần lớn
trong tổng tài sản quốc gia.
- Công sản là một bộ phận quan trọng trong tài sản quốc gia.
- Công sản bao hàm các loại tài sản có được từ đầu tư xây dựng, mua sắm bằng
quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước, các tài sản khác mà Nhà nước thu nạp được
và các nguồn tài sản do thiên nhiên ban tặng cho con người. Tất cả các tài sản,
tài nguyên đó đều thuộc hình thức sở hữu nhà nước; do Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền của chủ sở hữu (quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt).
- Công sản rất đa đạng và phong phú, được phân bố rộng trên phạm vi cả nước.
ở nước ta, Nhà nước giao Tài sản cho các ngành, các cấp, các cơ quan quản lý
nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội –
159
nghề nghiệp quản lý, sử dụng. Riêng Tài sản là đất đai, Nhà nước còn giao cho
hộ gia đình, cá nhân sử dụng.
- Trong nền kinh tế thị trường, đối với những Tài sản Nhà nước giao cho các
Doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, kinh doanh... công sản không chỉ bao hàm
những Tài sản hữu hình, mà còn có những Tài sản được thể hiện là những tài
sản vô hình.
Đối lập với khái niệm về công sản là Tài sản “Tư”. Sự khác biệt cơ bản
giữa công sản và Tài sản “Tư” được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Một là, công sản thuộc sở hữu công cộng bao gồm sở hữu Nhà nước, sở
hữu của các tổ chức kinh tế, xã hội nghĩa là sở hữu của nhiều người, còn Tài sản
“Tư” là những tài sản thuộc sở hữu của cá nhân hoặc một số thành viên trong xã
hội.
Hai là, công sản được sử dụng, khai thác vì lợi ích chung của toàn
xã hội, còn Tài sản “Tư” được sử dụng, khai thác vì lợi ích riêng của Chủ sở
hữu.
Ba là, Việc quản lý công sản chịu sự điều chỉnh của “luật công”, còn
việc quản lý Tài sản “Tư” không chịu sự điều chỉnh của “luật công”mà tuỳ
thuộc vào mục đích sử dụng của Chủ sở hữu và Pháp luật hiện hành.
Như vậy, về thực chất, sự khác biệt giữa công sản và Tài sản “Tư” xuất
phát từ sự khác biệt trong việc phân định 3 quyền: sở hữu, sử dụng và định đoạt
giữa công sản và “Tài sản Tư” hoàn toàn không giống nhau. Cụ thể là:
- Đối với Tài sản “Tư”, 3 quyền trên được được tập trung ở chủ sở hữu. Do vậy
việc sở hữu, sử dụng và định đoạt được thực hiện theo ý muốn chủ quan của
Chủ sở hữu mà không phụ thuộc vào khách thể nào.
- Đối với công sản: quyền sở hữu, sử dụng và định đoạt được tách rời trong
thực tế quản lý Tài sản do việc Nhà nước giao Tài sản cho các ngành, các cấp,
các cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp quản lý, sử dụng (Đối với công sản là đất đai,
Nhà nước còn giao cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng).
160
Chính vì vậy, căn cứ vào sự khác biệt cơ bản trên, vấn đề đặt ra đối với
việc xây dựng chế độ, chính sách và cơ chế quản lý công sản trong điều kiện
Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa phải chú ý đến những vấn đề sau:
Việc xây dựng chế độ, chính sách và cơ chế quản lý công sản phải bảo
đảm cơ sở pháp lý nhằm xác định quyền sở hữu công sản là sở hữu toàn
dân trong đó Nhà nước là Đại diện Chủ sở hữu duy nhất;
Các chính sách chế độ quản lý công sản phải thể hiện sự phân cấp nhằm
gắn trách nhiệm của các cấp, các ngành và các đối tượng được Nhà nước
giao quyền quản lý và sử dụng công sản một các rõ ràng và chặt chẽ
nhằm bảo vệ và sử dụng có hiệu quả công sản, phát triển kinh tế xã hội
nâng cao đời sống vật chất, văn hoá không ngừng cho nhân dân.
Việc xây dựng cơ chế quản lý công sản đòi hỏi: Một mặt phải bảo đảm
việc quản lý thống nhất công sản theo các chính sách chế độ của Nhà
nước, mặt khác phải thực hiện việc quản lý công sản gắn với thị trường
nhằm nâng cao tính tự chủ của các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý,
khai thác và sử dụng có hiệu quả công sản, từng bước xã hội hoá những
Dịch vụ công mà Nhà nước không cần nắm giữ nhằm tiết kiệm triệt để
việc đầu tư mua sắm Tài sản cho quốc gia.
1.2.3. Phân loại công sản.
Để đảm bảo sử dụng có hiệu quả công sản, vấn đề phân loại một các khoa
học và hợp lý các loại công sản có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công
tác quản lý và sử dụng trong việc phát triển kinh tế xã hội. Trong thực tế, công
sản đa dạng về hình thức tồn tại, công năng sử dụng và đối tượng sử dụng. Để
nhận biết và có các biện pháp quản lý, sử dụng có hiệu quả, công sản được phân
loại như sau:
Phân loại công sản theo thời gian sử dụng:
Theo cách phân loại này, công sản bao gồm:
- Các tài sản có thời gian sử dụng nhất định và sẽ bị hao mòn dần trong quá
trình khai thác, sử dụng như: Tài nguyên, khoáng sản và các tài sản nhân tạo
161
khác nhau: nhà cửa, công trình kiến trúc, cơ sở hạ tầng...
- Các loại tài sản có thể sử dụng vĩnh viễn không mất đi như tài nguyên, đất, tài
nguyên nước, không khí... Tuy nhiên, việc phân loại này chỉ là tương đối, vì
ngay tài nguyên đất nếu không có biện pháp quản lý, sử dụng và bảo vệ tốt sẽ bị
sói mòn, cằn cỗi; không khí có thể bị ô nhiễm...
Phân loại công sản theo nguồn gốc hình thành:
Theo cách phân loại này, công sản gồm:
- Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên khai được hình thành
và tồn tại trong tự nhiên như: đất đai, rừng tự nhiên, biển, vùng trời, sông ngòi,
khoáng sản trong lòng đất, những danh lam thắng cảnh, không khí...
- Tài sản nhân tạo là tất cả các tài sản do con người tạo lập ra và được duy trì
qua các thế hệ như: hệ thống cơ sở hạ tầng, các công trình văn hoá, các cổ vật,
nhà cửa, phương tiện đi lại, thiết bị máy móc....
Phân loại công sản theo đối tượng quản lý, sử dụng tài sản:
Theo cách phân loại này công sản bao gồm:
1.􀀀.􀀀. Công sản thuộc khu vực các cơ quan Nhà nước và đơn vị sự
nghiệp công lập: là những tài sản của Nhà nước giao cho các cơ quan
quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội – nghề nghiệp (gọi chung là cơ quan hành chính, đơn vị
sự nghiệp) quản lý, sử dụng gồm:
Nhà, đất thuộc trụ sở làm việc, kho tàng, trường học, bệnh viện, trạm trại
nghiên cứu thí nghiệm...
Các phương tiện đi lại.
Trang thiết bị làm việc và các tài sản khác.
1.􀀀.􀀀. Tài sản thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích
quốc gia bao gồm:
Hệ thống giao thông: đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không, bến
cảng, bến phà, bến xe, cầu, sân bay, nhà ga...
Hệ thống các công trình thuỷ lợi: đê điều, hệ thống kênh mương, trạm
162
bơm, hồ chứa nước, đập thuỷ lợi...
Hệ thống chiếu sáng, cấp, thoát nước...
Hệ thống các công trình văn hoá, di tích lịch sử đã được xếp hạng.
1.􀀀.􀀀. Tài sản được xác lập sở hữu Nhà nước theo quy định của pháp
luật:
Tang vật, phương tiện vi phạm pháp luật bị tịch thu sung quỹ nhà nước.
Tài sản chôn dấu, chìm đắm được tìm thấy; tài sản vắng chủ, vô chủ và các
tài sản khác được trở thành Tài sản công theo quy định của pháp luật.
Tài sản do tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hiến, biếu, tặng, cho,
đóng góp, giao lại cho Nhà nước; tài sản viện trợ của các tổ chức Chính
phủ, phi Chính phủ.
Tài sản khác...
- Công sảngiao cho các Công ty Nhà nước quản lý, sử dụng bao gồm: nhà
xưởng, đất đai, trang thiết bị , máy móc, phương tiện đi lại, vốn bằng tiền... và
vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp khác thành lập và hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Hợp tác xã.
- Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn tự
nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời.
Phân loại công sản theo giá trị bằng tiền
Theo cách phân loại này công sản bao gồm:
- Tài sản không thể quy đổi thành tiền (vô giá): là toàn bộ các tài sản tiềm năng,
phần lớn các tài sản có giá trị nhân văn như: các di tích lịch sử văn hoá danh
lam thắng cảnh...
- Tài sản có thể quy đổi thành tiền hoặc bản thân tài sản đó đã là tiền như: các
loại tài sản Tài chính, vàng, ngoại tệ, chứng khoán...
Phân loại công sản theo khả năng khai thác
Theo cách phân loại này công sản bao gồm:
- Tài sản hiện có: là loại tài sản có thể khai thác được ngay để phục vụ cho lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng.
163
- Tài sản tiềm năng: bao gồm các tài sản đã hoặc sẽ phát hiện và phục vụ nhu
cầu công tác trong tương lai.
Phân loại công sản theo tính chất sử dụng
Theo cách phân loại này công sản bao gồm:
- Tài sản cố định: Là những tài sản có thể là động sản hoặc bất động sản, có giá
trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, Trong đó có những tài sản cô định được coi là
hữu hình khi những tài sản đó được biểu hiện bằng những hình thái vật chất cụ
thể trong quá trình hình thành và sử dụng của các đơn vị tổ chức được Nhà nước
giao cho nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Ngoài ra còn có
những tài sản cố định vô hình là những tài sản tuy không biểu hiện bàng hình thái
vật chất song nó có giá trị không nhỏ, đặc biệt là những tài sản của các Doanh
nghiệp và đơn vị kinh tế của Nhà nước hiện nay.
- Tài sản lưu động: Là những tài sản có giá trị nhỏ và thời gian sử dụng không
lâu dài.
1.3. Vai trò của công sản.
Công sản là nguồn tiềm lực để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh,
quốc phòng; một niềm tự hào dân tộc, một cuộc sống vật chất, văn hoá, tinh
thần vô cùng quý giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Công sản là
nền tảng, là vốn liếng để khôi phục và xây dựng kinh tế chung để làm cho dân
giàu nước mạnh, để nâng cao đời sống nhân dân”. Vai trò của công sản có thể
được xem xét dưới nhiều khía cạnh: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... đó là:
Công sản là nguồn tài sản lớn tạo nên môi trường, môi sinh đảm bảo cho các
hoạt động kinh tế - xã hội của con người.
Công sản mà trước hết là tài nguyên thiên nhiên vừa là tiềm năng kinh tế
hiện thực vừa là điều kiện giữ gìn môi trường, môi sinh đảm bảo cho sản xuất,
đặc biệt là sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Đồng thời rừng, biển, sông, hồ còn
tạo ra bầu không khí trong lành rất cần thiết cho cuộc sống con người. Đó cũng
là môit rường, môi sinh được thiên nhiên ban tặng cho con người. Mặt khác,
công sản còn là điều kiện vật chất để nâng cao thể chất và tinh thần cho con
người. Con người lao động hiện nay không chỉ cần có tri thức, trình độ khoa học
164
kỹ thuật mà còn phải có thể chất cường tráng, có hiểu biết về văn hoá. Để tạo
cho con người đạt được các yêu cầu này, Nhà nước phải đầu tư, mua sắm các
công sản trang bị cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá,
xã hội, thể dục thể thao....
Công sản là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất xã hội.
Công sản là một trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Xét trên
phạm vi toàn thế giới, nếu không có tài nguyên, đất đai thì không có sản xuất và
cũng không có sự tồn tại của loài người. Sản xuất luôn là sự tác động qua lại của
ba yếu tố cơ bản: sức lao động của con người, tư liệu lao động và đối tượng lao
động. Đối tượng lao động là các vật thể mà lao động của con người tác động
vào để biến thành các sản phẩm mới phục vụ cho con người. Đối tượng lao
động có thể có sẵn trong thiên nhiên có thể là loại vật thể đã qua chế biến.
Nhưng suy cho cùng, cơ sở của mọi đối tượng lao động đều có nguồn khai thác
từ đất đai và tài nguyên thiên nhiên. Tư liệu lao động (trừ đất đai là một tư liệu
đặc biệt) đều là những tài sản do con người tạo ra để truyền dẫn sự tác động của
con người lên đối tượng lao động thành các sản phẩm mới phục vụ cho con
người. Đối tượng lao động và tư liệu lao động đều là công sản. Như vậy, tư liệu
lao động và đối tượng lao động là hai yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất vật
chất cũng có nghĩa là công sản là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất.
Công sản là nguồn vốn tiềm năng cho đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển có vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế của
mỗi quốc gia nhằm đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
phát triển toàn diện, bền vững của nền kinh tế. Thông qua đầu tư phát triển, công
sản được bảo tồn, phát triển. Nhưng muốn đầu tư phát triển phải có vốn đầu tư.
Vốn đầu tư ở đây là tài sản, hàng hoá và dịch vụ đưa vào sản xuất. Muốn có vốn
cho đầu tư phát triển mọi quốc gia đều phải khai thác từ nguồn tiết kiệm, nguồn
nhân lực, nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nguồn tài nguyên thiên nhiên chính là
công sản. Công sản là cơ sở, là tiền đề cho đầu tư phát triển, là yếu tố đầu vào
cho mọi quá trình sản xuất, là nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển. Toàn
bộ công sản là nguồn tài chính của đất nước vì nguồn tài chính của đất nước
165
được tồn tại dưới hai dạng: thứ nhất là dạng tiền tệ, thứ hai là dạng hiện vật
nhưng có khả năng chuyển hoá thành tiền tệ khi có tác động của ngoại lực; đó là
nguồn Tài chính tiềm năng. Nếu công sản được sử dụng, khai thác có hiệu quả,
tiết kiệm sẽ tạo ra điều kiện để phát triển sản xuất, đặc biệt là các ngành sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp và các ngành công nghiệp hoạt động dựa trên nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Ngược lại sẽ gây ra lãng phí, thất thoát làm suy giảm nguồn
nội lực của đất nước.
Tuy nhiên, đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, công sản chỉ
là điều kiện cần chưa phải là điều kiện đủ. Công sản chỉ trở thành sức mạnh kinh
tế khi con người biết tổ chức khai thác hợp lý và sử dụng nó tiết kiệm, có hiệu
quả. Trong lịch sử phát triển, có nhiều quốc gia có nguồn công sản dồi dào, tài
nguyên khoáng sản phong phú, điều kiện tự nhiên thuận lợi song vẫn là các nước
kém phát triển. Ngược lại có những quốc gia ít tài nguyên khoáng sản nhưng vẫn
là các quốc gia phát triển như Nhật Bản, Singapore.
Công sản là điều kiện vật chất phục vụ cho hoạt động bộ máy quản lý điều hành
của các cơ quanNhà nước, là nhân tố quan trọng trong quá trình tổ chức thực
hiện các hoạt động sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Để duy trì bộ máy hoạt động của bộ máy cơ quan hành chính Nhà nước; Nhà
nước cần phải trang bị các tài sản như: nhà đất thuộc trụ sở làm việc, phương
tiện đi lại, trang thiết bị làm việc... Hoạt động của bộ máy cơ quan hành chính
Nhà nước không thể thiếu được trong mỗi quốc gia vì nó đảm bảo cho các hoạt
động của xã hội được diễn ra thông suốt. Muốn nâng cao hiệu suất hoạt động
của các cơ quan hành chính Nhà nước theo hướng tinh giản biên chế thì phải
tăng cường trang bị tài sản cho bộ máy này cả về số lượng và chất lượng.
- Công sản là nhân tố quan trọng trong quá trình tổ chức thực hiện các hoạt
động sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp nhằm giúp các đơn vị sự nghiệp cung
cấp các sản phẩm dịch vụ công với chất lượng cao cho con người. Nó là điều
kiện vật chất để đào tạo con người có tri thức, có năng lực khoa học; để thực
hiện nghiên cứu khoa học và áp dụng các thành tựu khoa học vào sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội.
166
Công sản là điều kiện vật chất đê không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân.
Trong thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã hội hiện nay ở nước ta, xuất phát
điểm từ một nước nghèo nàn và lạc hậu, việc bảo đảm không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân không chỉ trông vào các nguồn lực
do nước ngoài đầu tư, mà Đảng và Nhà nước coi: những công sản của đất nước
chính là nội lực – là chủ yếu nhằm từng bước phát triển kinh tế xã hội, thực hiện
xoá đói giảm nghèo để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp
nhân dân .
2. KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ CÔNG SẢN.
2.1. Sự cần thiết và nguyên lý quản lý công sản.
2.1.1. Sự cần thiết quản lý công sản.
Tất cả các quốc gia trên thế giới đều hình thành một bộ phận tài sản để
phục vụ cho khu vực công cộng của đất nước. Tùy theo chế độ chính trị xã hội
khác nhau, quy mô và phương thức quản lý công sản cũng không hoàn toàn
giống nhau. Tuy nhiên, khi nói đến quản lý công sản, người ta đều thừa nhận là:
Quản lý công sản là quá trình tác động và điều chỉnh vào sự hình thành và vận
động của Tài sản nhằm khai thác sử dụng Tài sản một cách hiệu quả nhất vì lợi
ích của đất nước.
Quản lý công sản là một tất yếu thể hiện qua một số điểm sau đây:
Một là, công sản là tài sản của Nhà nước, của nhân dân do đó việc quản
lý tốt để tạo lập, khai thác và sử dụng công sản hiệu quả là đòi hỏi khách quan
trong quá trình xây dựng và phát triển của đất nước. Đó là nhiệm vụ quan trọng
của mọi quốc gia.
Hai là, công sản đặc biệt là cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội phản
ánh sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi địa phương, mỗi vùng. Nhà nước cần có
kế hoạch tạo lập, quản lý, khai thác phần tài sản công này một cách hợp lý, đồng
đều nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối các vùng, miền, lãnh thổ.
Ba là, công sản đặc biệt là phần công sản trong các cơ quan Nhà nước, là
phần vốn hiện vật của cơ quan, được hình thành từ nguồn chi tiêu công. Đó là
167
điều kiện đảm bảo cho các cơ quan nhà nước thực hiện tốt các chức năng,
nhiệm vụ được giao. Quản lý tốt phần công sản trong các cơ quan Nhà nước qua
việc mua sắm, sử dụng, bảo quản công sản, chống thất thoát lãng phí là đòi hỏi
đồng thời là trách nhiệm, nghĩa vụ của tất cả mọi cán bộ công chức trong các cơ
quan nhà nước.
Cuối cùng, Quản lý công sản là yêu cầu mong muốn của mọi người dân,
tạo lập, khai thác, sử dụng công sản có ý nghĩa kinh tế chính trị và xã hội to lớn.
Uy tín của Nhà nước, của cán bộ công chức nhà nước một phần rất lớn được
công dân đánh giá thông qua việc quản lý, sử dụng công sản.
2.1.2. Những nguyên lý quản lý công sản.
Mục tiêu quản lý công sản là nhằm tạo lập, khai thác, sử dụng Tài sản một cách
hợp lý, hiệu quả phục vụ tốt nhất cho quá trình thực hiện Công nghiệp hóa và
hiện đại hóa nhằm phát triển đất nước, xây dựng nền hành chính quốc gia vững
mạnh. Để đạt mục tiêu trên, công sản được quản lý theo những nguyên lý cơ
bản sau:
Thứ nhất, thống nhất về cơ chế, chính sách, chế độ quản lý; đồng thời
phải có cơ chế, chính sách, chế độ quản lý, sử dụng đối với những tài sản có
tính đặc thù riêng, đối với ngành, địa phương, tổ chức sử dụng tài sản phục vụ
cho các hoạt động có tính đặc thù riêng. Thống nhất quản lý trên cơ sở để đảm
bảo cơ chế, chính sách, chế độ quản lý tài sản phù hợp với đặc điểm của công
sản. Nội dung của thống nhất quản lý là Chính phủ thống nhất quản lý công sản;
Quốc hội, Chính phủ quy định cơ chế, chính sách, chế độ quản lý tài sản áp
dụng chung cho mọi tài sản và quy định cơ chế, chính sách, chế độ quản lý cụ
thể đối với những tài sản có giá trị lớn mà hầu hết cơ quan nhà nước, các đơn vị
lực lượng vũ trang, các đơn vị sự nghiệp công và các tổ chức khác được Nhà
nước giao trực tiếp sử dụng (có thể gọi là những tài sản chủ yếu và được sử
dụng phổ biến). Trên cơ sở cơ chế, chính sách, chế độ quản lý công sản do Quốc
hội, Chính phủ quy định; các Bộ, ngành, địa phương quy định cơ chế, chính
sách, chế độ quản lý đối với những tài sản có tính đặc thù riêng (có thể gọi là
168
những tài sản có tính đặc thù) và những tài sản phục vụ cho các hoạt động đặc
thù.
Thứ hai, thực hiện quản lý và sử dụng công sản theo tiêu chuẩn, định
mức. Quản lý và sử dụng công sản theo tiêu chuẩn định mức để công tác quản
lý, sử dụng tài sản phù hợp với đặc điểm của công sản; đồng thời để thống nhất
tiêu chuẩn, định mức sử dụng từng loại tài sản cho từng đối tượng sử dụng,
tránh hiện tượng mạnh ai người đó trang bị tuỳ tiện theo ý muốn của mình, tuỳ
thuộc vào khả năng vốn liếng (kinh phí) của đơn vị; tiêu chuẩn, định mức sử
dụng tài sản còn là thước đo đánh giá mức độ sử dụng tiết kiệm và hiệu quả
công sản của từng đơn vị; mặt khác, tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản là cơ
sở để thực hiện công tác quản lý, thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát của Nhà
nước. Chính phủ hoặc Chính phủ phân cấp cho Thủ tưóng Chính phủ quy định
tiêu chuẩn, định mức sử dụng đối với những tài sản có giá trị lớn được sử dụng
phổ biến ở các cơ quan nhà nước, các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, các
đơn vị sự nghiệp công và các tổ chức khác. Trên cơ sở tiêu chuẩn, định mức sử
dụng tài sản đối với các tài sản sử dụng phổ biến, các Bộ, ngành, địa phương
quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng đối với những tài sản sử dụng có tính
đặc thù.
Thứ ba, thực hiện phân cấp quản lý công sản. Phân cấp quản lý công sản
để đảm bảo việc quản lý công sản phù hợp với đặc điểm của công sản; đồng
thời cũng được xuất phát từ phân cấp trách nhiệm, quyền hạn quản lý kinh tế -
xã hội giữa Quốc hội, Chính phủ với các cấp chính quyền địa phương, giữa
Chính phủ với các Bộ, ngành về việc xây dựng cơ chế, chính sách, chế độ quản
lý tài sản; về xây dựng và ban hành định mức, tiêu chuẩn sử dụng tài sản; về
quản lý công sản …
Thứ tư, quản lý công sản phải gắn với quản lý ngân sách Nhà nước. Xuất
phát từ “Công sản là những tài sản được hình thành từ nguồn ngân sách Nhà
nước…” và mọi chi phí trong quá trình sử dụng tài sản đều do ngân sách Nhà
nước đảm bảo (trừ một số trường hợp cá biệt); do đó, việc quản lý công sản phải
gắn với quản lý ngân sách nhà nước. Hay nói một cách khác, quản lý công sản
169
là quản lý ngân sách nhà nước đã được chuyển hoá thành hiện vật – tài sản.
Quản lý công sản phải gắn với quản lý ngân sách Nhà nước có nghĩa là mọi cơ
chế, chính sách, chế độ quản lý công sản, định mức, tiêu chuẩn sử dụng công
sản phải phù hợp với quy định về quản lý ngân sách Nhà nước, việc trang bị Tài
sản cho các cơ quan nhà nước, các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, các đơn
vị sự nghiệp công, các tổ chức khác phải phù hợp với khả năng của ngân sách
nhà nước và được lập dự toán, chấp hành dự toán theo quy định của pháp luật
về ngân sách Nhà nước.
Công sản phong phú về chủng loại, mỗi loại có tính năng, công dụng
khác nhau, được phân bổ ở khắp mọi miền đất nước, được giao cho các ngành,
các cấp, các tổ chức, cá nhân trực tiếp sử dụng phục vụ cho các hoạt động: quản
lý nhà nước, giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, nghiên cứu khoa học, thể dục thể
thao, quốc phòng, an ninh, ngoại giao… từ cấp cơ sở đến các hoạt động ở Trung
ương. Do đó, việc quản lý công sản phải được tổ chức thực hiện theo những
nguyên lý cơ bản sau:
2.2 Những công cụ quản lý công sản của Nhà nước.
Nhà nước là một chủ thể xã hội đặc biệt của xã hội. Sự ra đời và phát triển
của Nhà nước gắn liền với sự xuất hiện của quốc gia. Nhà nước người đại diện
cho mọi thành viên của cộng đồng, do đó Nhà nước có chủ quyền đối với tài sản
quốc gia, đồng thời là người đại diện chủ sở hữu của công sản. Đối với tài sản
quốc gia thuộc sở hữu cá nhân hoặc nhóm thành viên của cộng đồng, Nhà nước là
người bảo hộ, hướng dẫn việc sử dụng các tài sản này tiết kiệm và có hiệu quả để
vừa đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội, vừa thoả mãn lợi ích cá nhân, của
nhóm thành viên cộng đồng – người chủ sở hữu tài sản. Nhà nước là người đại
diện chủ sở hữu tài sản có quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.
Nhà nước là chủ sở hữu của mọi công sản, nhưng lại không phải là người trực
tiếp sử dụng tài sản công. Nói một cách khác quyền sở hữu tài sản và quyền sử
dụng công sản chưa hoàn toàn gắn với nhau. Nhà nước giao công sản cho các cơ
quan thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước, các đơn vị kinh tế Nhà nước sử dụng
công sản ... Để thực hiện vai trò chủ sở hữu công sản của mình, Nhà nước phải
170
phát huy chức năng quản lý Nhà nước đối với công sản để buộc mọi người được
giao quyền sử dụng công sản phải bảo tồn, phát triển nguồn công sản và sử dụng
công sản tiết kiệm và có hiệu quả phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ
được môi trường môi sinh. Nhà nước phải thực hiện vai trò kiểm tra, kiểm soát
các quá trình hình thành, sử dụng, khai thác và xử lý các công sản, cụ thể là:
- Công sản dù là tài sản thiên tạo hay tài sản nhân tạo đều phải trải qua quá trình
hình thành và đòi hỏi có sự đầu tư để hình thành như đầu tư cho công tác điều
tra khảo sát, thăm dò đối với đất đai, tài nguyên thiên nhiên và đầu tư xây dựng,
mua sắm đối với các tài sản nhân tạo. Do vậy, Nhà nước phải có nguồn Tài
chính để đầu tư cho việc hình thành và phát triển công sản. Đồng thời Nhà nước
phải có cơ chế chính sách và thực hiện kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối
với việc sử dụng vốn đầu tư phát triển nguồn công sản để đạt yêu cầu sử dụng
vốn đầu tư tiết kiệm và có hiệu quả.
- Trong quá trình khai thác, sử dụng công sản, Nhà nước không phải là người
trực tiếp sử dụng, khai thác để hưởng hoa lợi, lợi tức từ công sản. Ngược lại,
Nhà nước lại giao công sản cho các cơ quan, lực lượng vũ trang nhân dân, tổ
chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp sử dụng. Do vậy, Nhà nước phải thực
hiện quyền kiểm tra, kiểm soát việc quản lý và sử dụng tài sản đó, nhằm buộc
người sử dụng tài sản công phải sử dụng tài sản theo đúng mục đích, có hiệu
quả và phải hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước, trong đó có nghĩa vụ với ngân
sách Nhà nước. Nói cách một khác, người sử dụng công sản phải làm theo ý trí
của người chủ sở hữu công sản – Nhà nước.
- Thời gian sử dụng của hầu hết các tài sản đều có hạn. Khi tài sản không
còn sử dụng được phải thanh lý. Nhà nước, với tư cách người chủ sở hữu công
sản, thực hiện quyền xử lý tài sản. Nhưng phần lớn Nhà nước giao cho cơ quan
trực tiếp sử dụng quyền xử lý tài sản; do đó, Nhà nước phải thực hiện kiểm tra,
giám sát và thu hồi tài sản sau xử lý.
Để thực hiện sự quản lý của Nhà nước đối với các quá trình hình thành
phát triển, khai thác sử dụng và kết thúc của các công sản, Nhà nước phải sử
dụng tổng hợp các công cụ quản lý sau đây:
171
Thứ nhất: Phải xây dựng các văn bản pháp luật về quản lý công sản. Đây
là một hình thức quản lý Nhà nước và một biện pháp để nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của quản lý Nhà nước. Thông qua pháp luật, Nhà nước mới buộc mọi cơ
quan, đơn vị sử dụng công sản phải theo ý chí của Nhà nước – người chủ sở hữu
công sản. Luật pháp quy định phạm vi công sản, các nguyên tắc quản lý, sử
dụng và xử lý công sản buộc mọi người sử dụng cũng như những quản lý công
sản phải tuân thủ. Quản lý công sản theo pháp luật được thực hiện ở hầu hết các
nước trên thế giới ở nhiều nước thường có các Bộ Luật về tài sản quốc gia, đồng
thời có các luật quản lý từng tài sản như Luật Đất đai, Luật khoáng sản... Bộ
luật về tài sản quốc gia quy định về phạm vi tài sản quốc gia, các nguyên tắc về
quản lý và sử dụng tài sản, quản lý các khoản thu chi từ tài sản và chế độ theo
dõi, báo cáo tài sản. Các luật về công sản chẳng những là công cụ quan trọng để
thực hiện vai trò quản lý vĩ mô đối với tài sản quốc gia mà còn thực hiện vai trò
chủ sở hữu Tài sản của Nhà nước.
Thứ hai: Sử dụng các cơ chế kinh tế để quản lý công sản.
Cơ chế kinh tế để quản lý công sản bao gồm hệ thống kế hoạch hoá và hệ
thống đòn bảy kinh tế như giá cả, tài chính, thuế, tín dụng.... Trong đó các cơ
chế Tài chính có vai trò quan trọng góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát
triển công sản, khai thác, sử dụng tài sản tiết kiệm và có hiệu quả, đặc biệt là
công cụ ngân sách, kế toán và thuế.
Thứ ba: Phải phân định rõ phạm vi, nội dung và trách nhiệm quản lý giữa
cơ quan thực hiện sự quản lý Nhà nước với cơ quan trực tiếp sự quản lý, sử
dụng tài sản. Như chúng ta đều biết quyền sở hữu và quyền sử dụng công sản
thường là tách khỏi nhau; do đó, Nhà nước không chỉ thực hiện quyền sở hữu
công sản bằng pháp luật và cơ chế chính sách mà còn phải có cơ chế tổ chức để
quản lý và kiểm tra, giám sát việc sử dụng tài sản. Nói đến cơ chế tổ chức để
quản lý công sản trước hết phải nói đến cơ quan quản lý công sản. Theo nguyên
lý công sản là một nguồn Tài chính tiềm năng dưới dạng hiện vật, giúp Nhà
nước thống nhất quản lý công sản là cơ quan Tài chính. Do vậy, ở tất cả các
nước, Chính phủ đều giao cho cơ quan Tài chính là người đại diện chủ sở hữu
172
công sản thực hiện thống nhất quản lý Tài sản bằng luật pháp và các cơ chế tài
chính (có nước còn gọi cơ quan Tài chính là Tổng quản công sản như Hàn
Quốc). Các ngành, địa phương sử dụng tài sản chỉ là có quyền sử dụng công sản
và đều chịu sự quản lý chung của cơ quan Tài chính. ở nước ta, theo Điều 206
của Bộ Luật dân sự Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với công sản,
Chính phủ thống nhất quản lý và đảm bảo sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và
tiết kiệm công sản. Tiếp đó, Luật Ngân sách Nhà nước ban hành năm 1996 đã
quy định Bộ Tài chính có trách nhiệm và quyền hạn tổ chức, quản lý, kiểm tra
việc sử dụng tài sản Nhà nước (công sản). Nhà nước đã quy định nhiệm vụ của
Bộ Tài chính:
- Trong việc quyết định chủ trương đầu tư, mua sắm, bảo dưỡng, duy tu, sửa
chữa tài sản:
- Trong việc điều chuyển, thu hồi, thanh xử lý tài sản.
- Quản lý tài chính trong việc xác định nguồn tài nguyên, đất đai và tài sản cơ sở
hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng.
- Quản lý tài sản trong quá trình dự trữ Nhà nước;
- Quản lý tài sản được xác lập quyền sở hữu Nhà nước.
2.3. Phân cấp quản lý công sản.
Một trong những đặc điểm cơ bản của công sản: quyền sở hữu, sử dụng và
định đoạt được tách rời trong thực tế quản lý công sản do việc Nhà nước giao
Tài sản cho các ngành, các cấp, các cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp
công lập, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp
quản lý, sử dụng (Đối với Tài sản là đất đai, Nhà nước còn giao cho hộ gia đình,
cá nhân sử dụng). Do đó, Nhà nước Trung ương không thể thực hiện quản lý
nhà nước đối với toàn bộ quá trình hình thành, khai thác, sử dụng, kết thúc tài
sản của tất cả các ngành, các cấp, các đơn vị được giao trực tiếp sử dụng tài sản.
Nhà nước phải thực hiện phân cấp quản lý công sản cho các cấp, các ngành, các
đơn vị; điều đó có nghĩa là Nhà nước trao quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ
trong việc quản lý và sử dụng công sản cho họ. Nói một cách khác phân cấp
173
quản lý công sản là phân định rõ phạm vi, nội dung, quyền hạn, trách nhiệm
quản lý công sản giữa Chính phủ Trung ương với các cấp chính quyền địa
phương và đơn vị trực tiếp sử dụng tài sản, giữa Chính phủ với các Bộ, ngành
và đơn vị trực tiếp sử dụng tài sản. Có người còn nói đó là sự phân cấp theo
chiều dọc và phân cấp theo chiều ngang. Chính vì vậy, việc phân cấp quản lý
công sản phải được thực hiện theo những nguyên tắc cơ bản sau:
2.3.1. Nguyên tắc phân cấp quản lý công sản.
- Phân cấp quản lý công sản phải phù hợp với phân cấp về quản lý kinh tế
- xã hội, về tổ chức bộ máy nhà nước. Thực vậy: nếu phân cấp quản lý công sản
không phù hợp với phân cấp về quản lý kinh tế - xã hội, phân cấp về tổ chức bộ
máy nhà nước sẽ dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong quản lý nhà nước về kinh tế -
xã hội với nguồn lực tài sản phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Sự
thiếu đồng bộ này dẫn đến hiệu quả quản lý thấp và phức tạp.
- Phân cấp quản lý công sản phải phù hợp với phân cấp về quản lý ngân
sách nhà nước. Hầu hết công sản đều có nguồn gốc từ nguồn vốn ngân sách Nhà
nươc, mặt khác, quản lý ngân sách là quản lý nguồn lực tài chính bằng tiền của
Nhà nước còn quản lý công sản là thực hiện quản lý nguồn lực bằng hiện vật
của Nhà nước; do đó, hai mặt này phải được quản lý phù hợp với nhau mới tạo
ra sức mạnh chung của đất nước. Hơn nữa, công sản được hình thành từ nguồn
ngân sách nhà nước và trong quá trình khai thác, sử dụng công sản đều gắn với
quá trình lập và chấp hành ngân sách nhà nước; Do đó, việc phân cấp quản lý
công sản phải gắn và phù hợp với phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước
- Phân cấp quản lý tài sản công phải phù hợp với trình độ và năng lực
quản lý của mỗi cấp, mỗi ngành và đơn vị được giao trực tiếp sử dụng công sản.
Nếu việc phân cấp không phù hợp sẽ dẫn đến hậu quả là hiệu quả quản lý thấp,
sử dụng công sản không đúng mục đích, thậm chí gây lãng phí và thất thoát
công sản.
2.3.2. Nội dung phân cấp quản lý công sản.
174
Phân cấp quản lý công sản là phân định rõ phạm vi, nội dung, quyền hạn,
trách nhiệm quản lý công sản. Do vậy, phân cấp quản lý công sản bao gồm hai
nội dung cơ bản sau:
Phân cấp việc xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, chế độ quản lý công sản.
Việc phân cấp xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, chế độ quản lý
công sản được thực hiện như sau:
Quốc hội ban hành Luật về quản lý công sản.
Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật về quản lý
công sản; quy định cụ thể về cơ chế, chính sách, chế độ quản lý tài sản
chung và đối với từng tài sản cụ thể có giá trị lớn và được sử dụng phổ
biến tại các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công, đơn vị lực lượng
vũ trang nhân dân, tổ chức khác
Thủ tướng Chính phủ quy định cơ chế chính sách, chế độ quản lý đối với
một loại tài sản, một tài sản cụ thể theo phân cấp của Chính phủ.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh
(tỉnh trưởng), thành phố (thị trưởng), đặc khu, khu tự trị (gọi chung là địa
phương) quy định cơ chế, chính sách, chế độ quản lý đối với tài sản đặc
thù, tài sản sử dụng cho hoạt động đặc thù của ngành, địa phương
Phân cấp về quản lý nhà nước đối với công sản.
Về phân cấp quản lý nhà nước đối với công sản được thực hiện như sau:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với công sản; có một Bộ, ngành
được phân công giúp Chính phủ thực hiện.
- Phân cấp giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với các Bộ, ngành, địa
phương về ban hành định mức, tiêu chuẩn sử dụng (trang bị) tài sản; theo đó,
Thủ tướng Chính phủ ban hành định mức, tiêu chuẩn sử dụng tài sản đối với
những tài sản có giá trị lớn, được sử dụng phổ biến tại các cơ quan nhà nước,
đơn vị sự nghiệp công, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế
công (của Nhà nước), tổ chức khác; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ, người đứng đầu ở địa phương ban hành định mức, tiêu chuẩn sử dụng tài
175
sản đối với những tài sản đặc thù, tài sản sử dụng cho hoạt động đặc thù của
ngành, địa phương.
- Phân cấp giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với các Bộ, ngành, địa
phương về thẩm quyền, trách nhiệm quản lý đối với công sản được thực hiện
với các nội dung:
Phân cấp về quản lý và thẩm quyền, trách nhiệm quyết định quy hoạch,
kế hoạch phát triển công sản; phân cấp về quản lý;
Thẩm quyền, trách nhiệm quyết định đầu tư xây dựng mới, mua sắm công
sản;
Phân cấp về quản lý và thẩm quyền, trách nhiệm quyết định xác lập
quyền sở hữu của nhà nước đối với tài sản được xác lập sở hữu nhà nước
theo quy định của pháp luật; phân cấp về quản lý và thẩm quyền, trách
nhiệm lập phương án xử lý, quyết định phương án xử lý đối với tài sản
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác lập quyền sở hữu của Nhà
nước;
Phân cấp về quản lý và thẩm quyền, trách nhiệm đăng ký sử dụng tài sản:
quy định các tài sản phải đăng ký, nội dung đăng ký, nơi đăng ký tài sản;
phân cấp về quản lý và thẩm quyền, trách nhiệm quyết định việc duy tu,
bảo dưỡng, sửa chữa tài sản;
Phân cấp về quản lý và thẩm quyền, trách nhiệm điều chuyển, thu hồi tài
sản; phân cấp về quản lý và thẩm quyền, trách nhiệm xử lý tài sản không
cần dùng, không còn sử dụng được (thanh lý tài sản);
Phân cấp về quản lý và thẩm quyền, trách nhiệm kiểm kê, thống kê, báo
cáo, thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài sản.
Để phân rõ trách nhiệm của các ngành các cấp, đồng thời nâng cao tính
độc lập, tự chủ , trách nhiệm trong trong quản lý và sử dụng Tài sản công,
việc phân cấp quản lý công sản là vấn đề vô cùng quan trọng. Trong đó
việc xác định những vấn đề có tính nguyên tắc và nội dung phân cấp quản
lý công sản có vị trí trọng yếu.
3. NỘI DUNG VÀ PHẠM VI QUẢN LÝ CÔNG SẢN.
176
3.1. Nội dung quản lý công sản.
Công tác quản lý công sản là thực hiện việc quản lý công sản theo các
tiêu chí nhất định nhằm quản lý chặt chẽ công sản theo đúng chính sách, chế độ,
phù hợp với quy hoạch, kế hoạch và đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả và phù hợp với
thị trường. Tuỳ theo các tiêu chí khác nhau, nội dung của quản lý công sản sẽ
được xác định cụ thể hơn. Trong thực tiễn hiện nay, xét về mặt lý luận cũng như
thực tiễn có thể căn cứ vào một số tiêu chí cụ thể sau để xác định nội dung quản
lý công sản như:
- Quản lý theo quy phạm pháp luật;
- Quản lý theo quy hoạch và kế hoạch;
- Quản lý theo phân cấp quản lý;
- Xã hội hoá trong trong quản lý và khai thác sử dụng;
Tuy nhiên, trong thực tiễn công tác quản lý hiện nay, công tác quản lý
công sản thường căn cứ theo tiêu chí quan trọng nhất là: Quản lý theo quá trình
hình thành và sử dụng Tài sản. Cụ thể là: Công tác quản lý công sản là thực hiện
quản lý công sản kể từ giai đoạn quyết định chủ trương đầu tư mua sắm và thực
hiện đầu tư mua sắm tài sản và quản lý quá trình hình thành tài sản, quản lý quá
trình duy trì, khai thác, sử dụng tài sản bao gồm cả việc bảo dưỡng, sửa chữa
(duy tu), tôn tạo tài sản, quản lý quá trình kết thúc tài sản. Căn cứ theo tiêu chí
này, nội dung quản lý công sản bao gồm:
3.2.1. Quản lý quá trình hình thành tài sản:
Quá trình này gồm hai giai đoạn: quyết định chủ trương đầu tư mua sắm
và thực hiện đầu tư mua sắm:
- Đối với tài sản trong các cơ quan Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công
lập, cơ quan quản lý công sản là cơ quan nắm vững định mức, tiêu chuẩn chế độ
quản lý tài sản, nắm vững khả năng và nhu cầu cần đầu tư, xây dựng, mua sắm
tài sản của từng đơn vị, do đó, cơ quan quản lý công sản phải là cơ quan chịu
trách nhiệm giúp chính quyền các cấp quyết định chủ trương đầu tư, mua sắm,
xác định nhu cầu vốn để ghi vào dự toán ngân sách Nhà nước. Sau khi có chủ
trương đầu tư, mua sắm tài sản, việc thực hiện đầu tư, mua sắm phải được thực
177
hiện theo quy định về đầu tư xây dựng cơ bản, quy định về mua sắm tài sản .
- Đối với tài sản thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích
quốc gia là tài sản đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đời sống xã
hội, an ninh quốc phòng v.v... diễn ra thuận lợi và có hiệu quả; vì thế những tài
sản này được đầu tư xây dựng do yêu cầu của đời sống, kinh tế, xã hội của đất
nước và việc quyết định đầu tư nó liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành,
nhiều cấp, mà trong đó cơ quan Tài chính nhà nước giữ vai trò quan trọng.
- Đối với Tài sản nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, việc quyết định đầu
tư phát triển loại tài sản này là chủ yếu phụ thuộc vào đường lối chính sách phát
triển kinh tế nói chung và phát triển các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà
nước trong từng thời kỳ. Việc quyết định đầu tư tăng tài sản ở khu vực này là
trách nhiệm của nhiều ngành, nhiều cấp và tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng
ngành, từng địa bàn trong từng giai đoạn.
- Đối với tài sản dự trữ nhà nước, việc tăng thêm hay rút bớt lực lượng dự
trữ nhà nước được quyết định bởi chiến lược của một quốc gia, mà trong đó cơ
quan quản lý công sản là một thành viên tham gia giúp Thủ tướng Chính phủ và
Chính phủ quyết định.
- Đối với tài sản là đất đai và tài nguyên khoáng sản khác, việc điều tra
khảo sát đo đạc lập bản đồ địa chỉnh, điều tra khảo sát tìm kiếm các nguồn tài
nguyên khoáng sản đều do các cơ quan quản lý chuyên ngành thực hiện bằng
các biện pháp kỹ thuật và nghiệp vụ riêng. Những công việc ban đầu này đòi hỏi
phải được đảm bảo bằng nguồn tài chính nhất định do cơ quan quản lý công sản
đảm nhiệm cả về xây dựng cơ chế quản lý và thực hiện sự quản lý trực tiếp.
3.2.2. Quản lý quá trình khai thác, sử dụng tài sản.
- Đối với tài sản trong các cơ quan Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập
việc thực hiện sự quản lý việc sử dụng theo mục đích, theo tiêu chuẩn, định mức
sử dụng và chế độ sử dụng tài sản, quản lý quá trình điều chuyển tài sản từ đơn vị
này qua đơn vị khác, điều chuyển giữa các ngành, các cấp, quản lý việc sửa chữa
tài sản v.v... nhằm đảm bảo cho việc sử dụng tài sản phục vụ thực hiện nhiệm vụ
của đơn vị được giao sử dụng tài sản. Đây là trung tâm của công tác quản lý công
178
sản.
- Đối với tài sản thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích
quốc gia là quá trình khai thác, sử dụng tài sản phục vụ cho mọi nhu cầu sản
xuất kinh doanh của các ngành kinh tế quốc dân, hoạt động của đời sống văn
hoá, xã hội, hoạt động của các sự nghiệp quốc phòng, an ninh, khoa học kỹ
thuật, y tế, xã hội v.v... quá trình khai thác, sử dụng cũng đồng thời là quá trình
duy tu, bảo đưỡng, sửa chữa các tài sản này. Toàn bộ công việc khai thác, sử
dụng tài sản thuộc kết cấu hạ tầng đều do các cơ quan kỹ thuật chuyên ngành
thực hiện. Việc khai thác, sử dụng đặt ra các yêu cầu về quản lý tài chính; chế
độ thu vào tổ chức, cá nhân được hưởng sự phục vụ hoặc được hưởng lợi từ
công trình và cơ chế quản lý Tài chính trong quá trình khai thác tài sản v.v...
Những nhiệm vụ này các cơ quan trực tiếp khai thác sử dụng chỉ có thể đề xuất,
cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện quản lý là cơ quan quản lý
công sản.
- Đối với tài sản nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, doanh nghiệp có
quyền sử dụng, khai thác thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và duy trì bảo
toàn giá trị tài sản – vốn do Nhà nước giao. Cơ quan quản lý công sản thực hiện
sự quản lý của Nhà nước đối với tài sản, vốn mà Nhà nước giao cho doanh
nghiệp.
- Đối với tài sản được xác lập sở hữu Nhà nước, tuỳ theo từng loại tài sản
mà Nhà nước có thể giao cho các cơ quan Nhà nước quản lý và sử dụng theo
công dụng như: các vật vô chủ là bất động sản như nhà đất... thì những tài sản đó
được giao cho các cơ quan nhằm sử dụng có hiệu quả những bất động sản đó
nhằm phục vụ kinh doanh hay phục vụ công cộng.
- Đối với đất đai và các nguồn tài nguyên khoáng sản khác, việc khai thác
sử dụng được pháp luật quy định. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao sử
dụng, khai thác chịu trách nhiệm trước pháp luật. Cơ quan quản lý chuyên
ngành sẽ thực hiện sự quản lý của Nhà nước để đảm bảo việc khai thác, sử dụng
đất đai và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khoáng sản phù hợp qui hoạch, kế
hoạch và pháp luật. Quá trình khai thác sử dụng cũng đồng thời nảy sinh các
179
quan hệ kinh tế tài chính giữa người sử dụng, khai thác với Nhà nước và giữa họ
với nhau. Việc giải quyết các quan hệ này phải được Nhà nước quy định và thực
hiện quản lý thông qua cơ quan quản lý công sản như định giá tài sản, cơ chế
đấu thầu khai thác, cơ chế cho thuê và giá thuê tài sản, chính sách thu vào người
sử dụng đất đai tài nguyên v.v.... chính sách cho phép tổ chức, cá nhân được
mang giá trị đất đai, tài nguyên góp vốn liên doanh v.v...
3.2.3. Quản lý quá trình kết thúc sử dụng tài sản.
Công sản đưa vào sử dụng sau một thời gian nhất định đều có quá trình
kết thúc của nó để thay thế bằng tài sản khác (trừ đất đai, công trình thuộc kết
cấu hạ tầng và một số công trình có tính chất tài sản lâu bền khác). Một tài sản
kết thúc phải trải qua quá trình thanh xử lý để thu hồi được cho Nhà nước và
đồng thời đó cũng là căn cứ để chuẩn bị đầu tư mua sắm tài sản mới, nhiệm vụ
này là nhiệm vụ của công tác quản lý công sản.
3.2. Phạm vi quản lý công sản.
Xuất phát từ thực tiễn hiện nay, đối với công sản: quyền sở hữu, sử dụng
và định đoạt được tách rời trong thực tế quản lý công sản do việc Nhà nước giao
Tài sản cho các ngành, các cấp, các cơ quan quản lý Nhà nước, đơn vị sự nghiệp
công lập, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp
quản lý, sử dụng. Do vậy, khi nói đến phạm vi quản lý công sản, cần xét xem
đối tượng quản lý là gì? Nội dung quản lý công sản theo mức độ (hay phạm vi
cụ thể) như thế nào? Chủ thể quản lý công sản công là “ai” ?
- Xét trên giác độ quản lý cụ thể công sản:
Công sản do Nhà nước giao cho các cơ quan thuộc hệ thống bộ máy Nhà
nước, các đơn vị kinh tế Nhà nước khai thác, sử dụng.... Do vậy các cơ quan
được Nhà nước giao quản lý, khai thác và sử dụng công sản phải xác định
những tài sản cụ thể để có biện pháp quản lý phù hợp và tuân thủ theo những
quy định chung của Nhà nước về quản lý công sản. Trong trường hợp này,
phạm vi quản lý công sản được hiểu là toàn bộ những tài sản cụ thể mà cơ quan
hay đơn vị phải quản lý chặt chẽ. Do vậy: căn cứ vào đối tượng cụ thể công sản
180
được Nhà nước giao cho quản lý và sử dụng, các cơ quan đơn vị một mặt phải
căn cứ vào những quy định của Nhà nước về chế độ quản lý công sản, mặt khác
phải xây dựng được cách thức quản lý phù hợp và khoa học.
- Xét trên giác độ quản lý Nhà nước công sản:
Nhà nước không sử dụng trực tiếp công sản, song để việc khai thác sử
dụng tài sản tiết kiệm và có hiệu quả, Nhà nước phải sử dụng bộ máy giúp Nhà
nước tổ chức quản lý kiểm tra việc sử dụng tài sản, đó là cơ quan quản lý công
sản. Vấn đề được đặt ra ở đây là việc phân định phạm vi nhiệm vụ và nội dung
quản lý giữa cơ quan quản lý công sản với các cơ quan quản lý khác và với cơ
quan, đơn vị được giao trực tiếp sử dụng tài sản. Vấn đề này cần được xem xét
một cách đầy đủ phù hợp với tính chất quan hệ sản xuất của từng giai đoạn ở
mỗi nước, phù hợp với quy mô và phạm vi công sản của nước đó, phù hợp với
cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước... Chúng ta có thể xem xét phạm vi
quản lý của cơ quan quản lý công sản đối với công sản như sau:
2.4.1. Đối với tài sản trong các cơ quan Nhà nước.
Công sản trong các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập là một
bộ phận quan trọng của tài sản của các cơ quan Nhà nước nói chung, trong đó
những tài sản Nhà nước được giao cho các cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp công lập quản lý, sử dụng để thực hiện nhiệm vụ hoặc bảo tồn, bảo
dưỡng, duy trì, giữ gìn bao gồm: nhà và đất thuộc trụ sở làm việc, nhà và đất
thuộc các cơ sở hoạt động sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao,
nghiên cứu khoa học... phương tiện vận tải và trang thiết bị, phương tiện hoạt
động... Đây là những tài sản được đầu tư bằng nguồn vốn của ngân sách, bằng
đóng góp của nhân dân hoặc hiến tặng của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
qua nhiều thế hệ người Việt Nam. Nguyên tắc chung là: tài sản này phải được
cơ quan quản lý công sản trực tiếp quản lý chặt chẽ quá trình đầu tư xây dựng,
mua sắm, quá trình sử dụng và kết thúc sử dụng.
Đối với nhà, đất thuộc trụ sở làm việc hoặc thuộc các cơ sở hoạt động sự
nghiệp kinh tế, giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học...
phương tiện vận tải, trang thiết bị làm việc đảm bảo cho hoạt động của các đơn
181
vị hành chính, sự nghiệp là những tài sản mà đơn vị được giao trực tiếp sử dụng
tài sản phải sử dụng theo chế độ, định mức, tiêu chuẩn. Những tài sản này được
đầu tư bằng nguồn từ ngân sách Nhà nước hoặc có nguồn từ ngân sách Nhà
nước, những tài sản này có thể điều động từ nơi này sang nơi khác, những tài
sản này về cơ bản (trừ một số trường hợp đặc biệt) đều trải qua các quá trình:
hình thành, sử dụng, thanh lý, cơ quan quản lý công sản là cơ quan nắm thực lực
tài sản chung và của từng ngành, từng đơn vị và khả năng ngân sách Nhà nước,
cơ quan quản lý công sản vừa là cơ quan nắm vững chế độ, tiêu chuẩn, định
mức sử dụng vừa là cơ quan có đủ điều kiện giữ quyền tham mưu cho chính
quyền quyết định hoặc trực tiếp quyết định theo sự phân cấp của chính quyền về
đầu tư, mua sắm, sửa chữa, cải tạo nâng cấp v.v..., quyết định sự điều chuyển từ
nơi này sang nơi khác, quyền quyết định việc thanh lý và xử lý tài sản.
Tuy nhiên, trong thực tế, do phạm vi quản lý các công sản rất rộng, số
lượng đơn vị nhiều, mặt khác, do yêu cầu của việc quản lý chặt chẽ những công
sản của cấp ngành, cấp địa phương, vì thế, tuỳ thuộc vào thực tế, việc quản lý
công sản có thể được phân cấp cho các ngành, các địa phương để giảm bớt các
nghiệp vụ xử lý của cơ quan quản lý công sản và nâng cao trách nhiệm quản lý
của ngành, địa phương.
2.4.2.Đối với tài sản được xác lập sở hữu Nhà nước theo pháp luật quy định.
Tài sản được xác lập sở hữu Nhà nước bao gồm: Tài sản bị tịch thu sung
quĩ Nhà nước và tiền phạt do vi phạm pháp luật; Tài sản bị chôn dấu chìm đắm
được tìm thấy; tài sản bị đánh rơi, bỏ quên, vắng chủ, vô chủ và các tài sản khác
theo quy định của pháp luật là của Nhà nước; tài sản do tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước biếu, tặng, đóng góp và các hình thức chuyển giao quyền sở hữu
tài sản khác cho Nhà nước; tài sản viện trợ của tổ chức phi Chính phủ, nước
ngoài và các tổ chức quốc tế và cá nhân khác.
Những tài sản trên đây do nhiều đơn vị trực tiếp tịch thu, tiếp nhận.
Nhưng những đơn vị trực tiếp nhận hoặc tịch thu lại và không phải là đơn vị có
nhu cầu sử dụng tài sản mà việc tiếp nhận, tịch thu tài sản được thực hiện vùng
với việc thực hiện nhiệm vụ quản lý thị trường, ngành thuế thực hiện nhiệm vụ
182
thu thuế v.v... đồng thời có bắt giữ tịch thu hàng hoá do vi phạm pháp luật. Một
số ngành khác do vi phạm quản lý trực tiếp nhận một số vật tư, hàng hoá, tài sản
(cơ chế cũ để lại)... những tài sản này theo pháp luật quy định là của Nhà nước
và phải được xử lý thu về cho ngân sách. Cơ quan quản lý công sản phải trực
tiếp quản lý, xử lý tài sản này; tuy nhiên, đối với một số hàng hoá đặc biệt (vàng
bạc đá quý, vũ khí....) có thể giao cho cơ quan chuyên ngành bảo quản và xử lý,
nhưng về nguyên tắc cơ quan quản lý công sản phải thực hiện quản lý ngay từ
ban đầu đến kết thúc và xử lý thu về cho ngân sách.
2.4.3. Đối với tài sản thuộc cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích
quốc gia.
Tài sản thuộc cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia
được giao cho các đơn vị hoạt động sự nghiệp bảo tồn, duy trì, bảo dưỡng
(trung duy tu)... khai thác sử dụng phục vụ cho hoạt động xã hội, quốc phòng,
an ninh của đất nước, của một ngành hoặc nhiều ngành, một địa phương hoặc
nhiều địa phương, của một bộ phận xã hội v.v... Tài sản cơ sở hạ tầng giữ vị trí
rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế nước
ta. Tuy nhiên, quá trình hình thành, sử dụng và kết thúc tài sản thuộc cơ sở hạ
tầng có những đặc điểm riêng của nó và mỗi loại tài sản lại có những đặc điểm
riêng của nó phải do một chuyên ngành nhất định quản lý sử dụng, khai thác:
- Các công trình thuộc hệ thống giao thông phải do ngành giao thông trực
tiếp quản lý, khai thác;
- Các công trình thuộc hệ thống các công trình thuỷ lợi phải do ngành
thuỷ lợi quản lý khai thác.
- Các công trình văn hoá, di tích lịch sử..., phải do các chuyên ngành của
ngành văn hoá, bảo tồn bảo tàng, quản lý bảo dưỡng, tôn tạo, duy tu và khai
thác; v.v...
Nhưng những vấn đề chung như quyết định chủ trương đầu tư mới; cải tạo,
nâng cấp, mở rộng công trình sẵn có phải được thực hiện theo quy định chung
về quản lý xây dựng cơ bản của Nhà nước. Nhiệm vụ quản lý tài chính đảm bảo
cho việc sử dụng, khai thác cũng như bảo dưỡng, duy tu, sửa chữa (duy tu) phục
183
vụ cho quá trình sử dụng, khai thác... phải do cơ quan quản lý công sản thực
hiện. Vì yêu cầu về tài chính đảm bảo cho công tác này không phụ thuộc vào
biên chế của đơn vị trực tiếp quản lý, bảo tồn, sử dụng khai thác. Vì định một
mức thu trong quá trình sử dụng khai thác những tài sản này không phụ thuộc
vào yêu cầu chi tiêu tài chính phục vụ cho quá trình đó. Mà điều cơ bản ở đây là
chính sách thu vào những đối tượng được phục vụ và cơ chế quản lý tà chính
trong quá trình sử dụng, khai thác cũng như bảo đưỡng, duy tu lại chủ yếu phụ
thuộc vào vị trí, vai trò của mỗi tài sản trong đời sống, kinh tế, xã hội của đất
nước, phụ thuộc vào đặc điểm, tính chất của từng tài sản, sự bền vững và cường
độ khai thác sử dụng, quy mô phục vụ của tài sản đó. Vì thế, việc quản lý tài
chính đối với tài sản thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích
quốc gia, do cơ quan quản lý tài chính Nhà nước chuyên ngành quản lý công
sản thực hiện.
2.4.4. Đối với tài sản Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp.
Những tài sản được hình thành từ nguồn ngân sách Nhà nước và tài sản
được xác lập sở hữu Nhà nước, đất đai tài nguyên thiên nhiên mà Nhà nước
giao cho doanh nghiệp dưới hình thức vốn đề sử dụng vào mục đích sản xuất
kinh doanh, doanh nghiệp có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn.
Tài sản Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp bao gồm:
- Tài sản Nhà nước trong Công ty cổ phần;
- Tài sản Nhà nước trong công ty trách nhiện hữu hạn (bao gồm công ty TNHH
1 thành viên và công ty TNHH từ 2 thành viên trở lên;
- Tài sản Nhà nước trong Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ( Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có 2 hình thức: Doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài).
Nguyên tắc quản lý tài sản Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp là:
Thực hiện quản lý theo cơ chế cơ sở, chế độ thống nhất đảm bảo được sự
kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước và giám sát của doanh nghiệp Nhà
nước là chủ sở hữu duy nhất đối với tài sản Nhà nước. Nhưng Nhà nước
lại thực hiện các quyền của chủ sở hữu thông qua các cơ quan chức năng
184
của mình đó chính là người đại diện chủ sở hữu.
Đảm bảo cho doanh nghiệp Nhà nước có quyền tự chủ, tự định đoạt kinh
doanh trong môi trường cạnh tranh theo các quy luật khách quan của kinh
tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
2.4.5. Đối với tài sản là đất đai và các nguồn tài nguyên khác.
Đất đai và các nguồn tài nguyên khoáng sản khác là tài sản quốc gia do
thiên nhiên ban tặng rất phong phú và đa dạng. Theo Hiến pháp năm 1992 của
nước ta, đất đai và các nguồn tài nguyên khoáng sản khác thuộc sở hữu toàn dân
mà đại diện chủ sở hữu là Nhà nước. Nhà nước giao việc quản lý đất đai và các
nguồn tài nguyên khác cho các ngành cụ thể như sau:
- Cơ quan quản lý công sản có trách nhiệm xây dựng cơ chế quản lý tài
chính trong việc xác định nguồn tài nguyên, trong việc khai thác sử dụng nguồn
tài nguyên và thực hiện sự quản lý của tài chính Nhà nước.
- Ngành địa chính quản lý đất đai bao gồm các nhiệm vụ: Điều tra, khảo
sát, đo đạc, đánh giá và phân hạng đất, lập bản đồ địa chính; lập quy hoạch và
kế hoạch hoá việc sử dụng đất; giao đất, cho thuê đất; thu hồi đất; ban hành các
văn bản về quản lý, sử dụng đất và thực hiện các văn bản đó; thanh tra việc chấp
hành chế độ, thể chế về quản lý, sử dụng đất; đăng ký đất đai, lập và quản lý sổ
Địa chính, quản lý các hợp đồng sử dụng đất, thống kê, kiểm kê đất, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết
khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong quản lý sử dụng đất.
- Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn được giao nhiệm vụ quản lý
về rừng, đất rừng và nguồn tài nguyên nước với nội dung tương tự như ngành
địa chính quản lý đất đai.
- Các cơ quan chuyên ngành về địa chất và khoáng sản được giao nhiệm
vụ quản lý các nguồn tài nguyên khoáng sản khác. Thực hiện quản lý từ điều
tra, khảo sát, thăm dò, tìm kiếm nhằm xác định nguồn tài nguyên thiên nhiên
đến khai thác sử dụng từng loại tài nguyên khoáng sản.
2.4.6. Đối với tài sản dự trữ Nhà nước.
Tài sản dự trữ là khoản tích luỹ từ ngân sách Nhà nước nhằm chủ động
185
đáp ứng những yêu cầu cấp bách về phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai,
hoả hoạn dịch bệnh đảm bảo quốc phòng an ninh tham gia ổn định thị trường gó
phần ổn định kinh tế vĩ mô và góp phần thực hiện các nhiệm vụ đột xuất cấp
bách khác
Vai trò của tài sản dự trữ nhà nước vô cùng to lớn trong việc: Góp phần
ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định đời sống nhân dân và đảm bảo an ninh quốc
phòng của đất nước. Do vậy, việc bảo đảm quản lý chặt chẽ tài sản dự trữ quốc
gia là hết sức cần thiết.
Việt Nam, Quốc hội là người quyết định tổng mức dự trữ quốc gia
hàng năm và Bộ tài chính trực tiếp tổ chức quản lý hàng dự trữ quốc gia để đáp
ứng yêu cầu đảm bảo an ninh lương thực cứu hộ cứu nạn cứu trợ khẩn cấp,
phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn dịch bệnh bình ổn thị trường
và ổn định đời sống nhân dân. Bộ Quốc phòng và Bộ Công an trực tiếp tổ chức
quản lý hàng dự trữ quốc gia đảm bảo cho yêu cầu về quốc phòng an ninh các
bộ ngành khác trực tiếp quản lý một số mặt hàng đặc thù theo nhiệm vụ do
Chính phủ giao.
Tóm lại: để quản lý chặt chẽ và hiệu quả công sản, vấn đề phải xác định
rõ nội dung và phạm vi quản lý công sản giữa cơ quan quản lý Nhà nước và chế
độ quản lý cụ thể tại các cơ quan được Nhà nước giao cho quản lý, khai thác và
sử dụng. Nói một cách khác đó là việc xác định nội dung và cơ chế quản lý công
sản một các khoa học và hợp lý hiện nay là một vấn đề hết sức quan trọng và
bức thiết.
Câu hỏi ôn tập và thảo luận chương 5:
1. Trình bầy khái niệm, đặc điểm và vai trò của công sản. Liên hệ tình
hình thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.
2. Trình bầy những nội dung cơ bản về quản lý công sản. Liên hệ tình
hình thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.
186__

0 nhận xét Blogger 0 Facebook

Đăng nhận xét

Ý kiến của bạn:

 
Bùi Quốc Thiện © 2013. All Rights Reserved. Powered by Blogger
Top