1. NHỮNG VẤN ĐỀ
CHUNG VỀ NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm
ngân sách Nhà nước
1.1.1. Khái niệm
ngân sách Nhà nước
Từ "ngân
sách" được lấy từ thuật ngữ "budjet" một từ tiếng Anh thời
Trung cổ, dùng để
mô tả chiếc túi của nhà vua trong đó có chứa những khoản
tiền cần thiết
cho những khoản chi tiêu công cộng. Dưới chế độ phong kiến, chi
tiêu của nhà vua
cho những mục đích công cộng như: đắp đê phòng chống lũ
lụt, xây dựng đường
xá và chi tiêu cho bản thân hoàng gia không có sự tách biệt
nhau. Khi giai cấp
tư sản lớn mạnh từng bước khống chế nghị viện và đòi hỏi
tách bạch hai
khoản chi tiêu này, từ đó nảy sinh khái niệm ngân sách Nhà nước.
Trong thực tiễn,
khái niệm ngân sách thường để chỉ tổng số thu và chi của
một đơn vị trong
một thời gian nhất định. Một bảng tính toán các chi phí để
thực hiện một kế
hoạch, hoặc một chương trình cho một mục đích nhất định
củamột chủ thể
nào đó. Nếu chủ thể đó là Nhà nước thì được gọi là ngân sách
Nhà nước.
Từ điển Tiếng Việt
thông dụng định nghĩa: "Ngân sách: tổng số thu và
chi của một đơn
vị trong một thời gian nhất định."
Điều 1 của Luật
ngân sách Nhà nước được Quốc hội khoá XI nước Cộng
hoà XHCN Việt
Nam thông qua tại kỳ họp thứ hai, năm 2002 ghi rõ: "Ngân
sách Nhà nước là
toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan
nhà nước có thẩm
quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo
đảm thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước".
1.1.2. Các đặc
trương cơ bản của ngân sách Nhà nước
Từ điều trên, có
thể thấy đặc trưng của ngân sách Nhà nước bao gồm:
- Về cơ cấu: ngân sách Nhà
nước bao gồm toàn bộ các khoản thu, khoản chi của
Nhà nước. Hình
thức biểu hiện bên ngoài, ngân sách Nhà nước là một bảng liệt
kê các khoản thu
khoản chi bằng tiền của Nhà nước được dự kiến và cho phép
trong một khoảng
thời gian nhất định.
39
- Về mặt pháp
lý: ngân
sách Nhà nước phải được cơ quan có thẩm quyền quyết
định. Thẩm quyền
quyết định ngân sách Nhà nước, ở hầu hết các nước là thuộc
về các cơ quan đại
diện (Nghị viện). Ở Việt Nam, Quốc Hội cũng là cơ quan có
thẩm quyền thông
qua và phê chuẩn ngân sách. Quốc Hội thảo luận và quyết
định về tổng mức,
cơ cấu và phân bổ ngân sách trung ương. Mọi hoạt động thu
chi ngân sách đều
được tiến hành trên cơ sở pháp luật do Nhà nước ban hành.
- Về thời gian
thực hiện: Theo
quy định hiện hành, ngân sách Nhà nước dự toán
và thực hiện
trong một năm, năm này gọi là năm ngân sách hay năm Tài khoá.
Ngân sách Nhà nước
là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước.
NSNN vừa là nguồn
lực để nuôi sống bộ máy, vừa là công cụ hữu hiệu trong tay
Nhà nước để điều
tiết nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Về bản chất của
ngân sách Nhà nước, đằng sau những con số thu, chi đó
là các quan hệ lợi
ích kinh tế giữa nhà nước và các chủ thể khác như doanh
nghiệp, hộ gia
đình, cá nhân trong và ngoài nước gắn liền với quá trình tạo lập,
phân phối và sử
dụng quỹ Ngân sách.
Ngân sách Nhà nước
Việt Nam gồm: ngân sách trung ương và ngân sách
địa phương. Ngân
sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính
các cấp có Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Phù hợp với mô hình tổ
chức chính quyền
Nhà nước ta hiện nay ngân sách địa phương bao gồm: ngân
sách cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân sách cấp
tỉnh). Ngân sách
cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là
ngân sách cấp
huyện) và ngân sách cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân
sách cấp xã).
1.2. Phân loại
thu, chi Ngân sách Nhà nước
1.2.1. Phân loại
thu Ngân sách Nhà nước
Thu ngân sách
Nhà nước là quá trình nhà nước sử dụng quyền lực để huy
động một bộ phận
giá trị của cải xã hội hình thành quỹ ngân sách nhằm đáp ứng
nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước.
Thu ngân sách
Nhà nước bao gồm rất nhiều loại, ngoài các khoản thu
chính từ thuế,
phí, lệ phí: còn có các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà
40
nước; các khoản
đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các
khoản thu khác
theo quy định của pháp luật.
Để cung cấp
thông tin một cách có hệ thống, công khai, minh bạch, đảm
bảo trách nhiệm,
đáp ứng yêu cầu quản lý của các đối tượng thì việc phân loại
các khoản thu
theo những tiêu thức nhất định là hết sức quan trọng.
Hiện nay, trong
quản lý ngân sách thường dùng 2 cách phân loại thu ngân
sách chính đó
là:
Phân loại theo
phạm vi phát sinh: Căn cứ vào phạm vi phát sinh, các khoản
thu ngân sách
Nhà nước được chia thành: Thu trong nước và thu ngoài nước.
- Thu trong nước
là các khoản thu ngân sách phát sinh tại Việt Nam. Nó bao
gồm: Thu từ các
loại thuế như: thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp,
thuế tiêu thụ đặc
biệt, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao... Ngoài ra
còn có các khoản
thu từ phí, lệ phí, tiền thu hồi vốn ngân sách, thu hồi tiền cho
vay (cả gốc và
lãi), thu từ vốn góp của Nhà nước, thu sự nghiệp, (thu tiền bán
nhà và thuê nhà ở
thuộc sở hữu nhà nước...
- Thu ngoài nước
là các khoản thu phát sinh không tại Việt Nam bao gồm: các
khoản đóng góp tự
nguyện, viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước,
các tổ chức quốc
tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài cho Chính phủ
Việt Nam.
Ngoài ra để đáp ứng
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước thì các khoản vay nợ
trong nước,
ngoài nước như phát hành trái phiếu chính phủ, vay ODA trở thành
nguồn bù đắp
thâm hụt ngân sách và đầu tư phát triển rất quan trọng.
Qua việc phân loại
các khoản thu ngân sách trên cho phép đánh giá được
mức độ huy động
các nguồn thu ở các khu vực kinh tế khác nhau trong nền kinh
tế; cũng như tổng
quan thu trong nước, ngoài nước. Từ đó có chính sách, biện
pháp khai thác
các nguồn thu cho hợp lý ở các khu vực, cân đối giữa thu trong
nước và ngoài nước.
Phân loại theo nội
dung kinh tế: Căn
cứ vào nội dung kinh tế, các khoản thu
ngân sách nhà nước
ở nước ta gồm:
- Thuế, phí, lệ
phí do các tổ chức, cá nhân nộp theo quy định của pháp luật.
41
- Các khoản thu
từ hoạt động kinh tế của Nhà nước theo quy định của pháp luật,
như: Tiền thu hồi
vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế; Thu hồi tiền vay của
Nhà nước (cả gốc
và lãi); Thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở
kinh tế, kể cả
thu từ lợi nhuận sau khi thực hiện nghĩa vụ về thuế của các tổ
chức kinh tế có
sự tham gia góp vốn của Nhà nước theo quy định của Chính
phủ.
- Thu từ các hoạt
động sự nghiệp: Tiền sử dụng đất; thu từ hoa lợi công sản và
đất công ích; Tiền
cho thuê đất, thuê mặt nước; Thu từ bán hoặc cho thuê tài sản
thuộc sở hữu Nhà
nước.
- Các khoản đóng
góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước.
- Các khoản viện
trợ không hoàn lại của chính phủ các nước, các tổ chức, cá
nhân ở nước
ngoài cho Chính phủ Việt Nam, các cấp chính quyền và các cơ
quan, đơn vị Nhà
nước.
- Các khoản thu
khác theo quy định của pháp luật, gồm: Các khoản di sản nhà
nước được hưởng;
các khoản phạt, tịch thu; Thu hồi dự trữ nhà nước; Thu
chênh lệch giá,
phụ thu; Thu bổ sung từ ngân sách cấp trên; Thu chuyển nguồn
ngân sách nhà nước
từ ngân sách năm trước chuyển sang;
Qua cách phân loại
này giúp cho việc xem xét từng nội dung thu theo tính
chất và hình thức
động viên vào ngân sách đánh giá tính cân đối, bền vững, hợp
lý về cơ cấu của
các nguồn thu. Trên cơ sở đó giúp cho việc hoạch định chính
sách cũng như tổ
chức điều hành ngân sách phù hợp với các mục tiêu mà nhà
nước theo đuổi
trong từng thời kỳ.
Ngoài ra trong
việc quản lý ngân sách Nhà nước, trong các biểu mẫu về
thu ngân sách
Nhà nước người ta thường phân loại thu ngân sách theo nội dung
kinh tế thành
các nhóm lớn là:
- Thu cân đối
ngân sách nhà nước: bao gồm các khoản thu nội địa như: các
loại thuế, lệ
phí, thu về nhà đất thuộc sở hữu nhà nước; thu từ dầu thô; thu từ hoạt
động xuất nhập
khẩu; thu huy động quỹ dự trữ tài chính; thu kết dư ngân sách năm
trước; thu chuyển
nguồn năm trước; thu viện trợ không hoàn lại; thu huy động đầu
tư của cấp tỉnh
xây dựng kết cấu hạ tầng theo quy định của luật ngân sách.
42
- Thu vay để cân
đối ngân sách trung ương bao gồm vay trong nước dưới
các hình thức
trái phiếu chính phủ, công trái; vay ngoài nước.
- Thu để lại đơn
vị chi quản lý qua ngân sách ví dụ: các khoản phí, lệ phí
như học phí, viện
phí....; thu phạt an toàn giao thông; các khoản huy động đóng
góp xây dựng cơ
sở hạ tầng; các khoản phụ thu, khác.
- Thu chuyển
giao giữa các cấp ngân sách bao gồm số bổ sung cân đối và
bổ sung có mục
tiêu từ ngân sách cấp trên.
- Các khoản tạm
thu và vay khác của ngân sách nhà nước như vay nước
ngoài về cho vay
lại, thu nợ gốc và lãi cho vay từ nguồn vay nhà nước về cho
vay lại. các khoản
vay khác như vay ngân hàng nhà nước, các quỹ dự trữ tài
chính...
1.2.2. Phân loại
chi ngân sách nhà nước.
Chi ngân sách
nhà nước là quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách
nhằm thực hiện
các nhiệm vụ của nhà nước trong từng thời kỳ. Nội dung chi
ngân sách rất đa
dạng, điều này xuất phát từ vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước
trong việc phát
triển kinh tế - xã hội. Nó bao gồm các khoản chi phát triển kinh
tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà
nước; chi trả nợ
của nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định
của pháp luật.
Tuỳ thuộc vào
các mục tiêu khác nhau mà chi ngân sách có các cách phân
loại sau:
- Phân loại theo
ngành nghề kinh tế quốc dân: Đây là cách phân loại dựa vào
chức năng của
chính phủ đối với nền kinh tế - xã hội thể hiện qua 20 ngành kinh
tế quốc dân,
như: Nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy lợi; thủy sản; công nghiệp
khai thác mỏ;
công nghiệp chế biến; xây dựng; khách sạn nhà hàng và du lịch;
giao thôngvận tải,
kho bãi và thông tin liên lạc; tài chính, tín dụng; khoa học và
công nghệ; quản
lý nhà nước và an ninh quốc phòng; giáo dục và đào tạo; y tế
và các hoạt động
xã hội; hoạt động văn hoá và thể thao...
Phânloại theo
ngành kinh tế quốc dân nhằm so sánh chi ngân sách giữa
các nước được
thuận lợi theo Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) và cẩm nang
43
Thống kê Tài
chính của chính phủ (GFS) do Liên Hợp Quốc xây dựng. Hơn
nữa, cách phân
loại này còn giúp phân tích chính sách chi ngân sách phù hợp
với chức năng,
nhiệm vụ cụ thể của nhà nước trong từng thời kỳ.
- Phân loại chi
theo nội dung kinh tế của các khoản chi: Căn cứ vào nội dung
kinh tế của các
khoản chi mà chi ngân sách nhà nước có thể chia ra thành các
nhóm, tiểu nhóm,
mục, tiểu mục chi ngân sách.
Theo cách phân
loại này thì các khoản chi được chia thành: Chi thường
xuyên, chi đầu
tư phát triển và chi khác.
Chi thường xuyên
là
những khoản chi có thời hạn tác động ngắn thường
dưới một năm.
Nhìn chung, đây là các khoản chi chủ yếu phục vụ cho chức
năng quản lý và
điều hành xã hội một cách thường xuyên của nhà nước như:
Quốc phòng, an
ninh, sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá thông tin, thể
dục thể thao,
khoa học công nghệ, hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam...
Thuộc loại chi
thường xuyên gồm các nhóm, mục chi sau đây:
- Chi thanh toán
cho cá nhân như tiền lương; tiền công; phụ cấp lương; học
bổng sinh viên;
tiền thưởng; phúc lợi tập thể; các khoản đóng góp như: bảo
hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, kinh phí công đoàn.v.v...
- Chi nghiệp vụ
chuyên môn: Các khoản chi về hàng hóa, dịch vụ tại các cơ
quan Nhà nước
như: điện nước, vệ sinh môi trường; vật tư văn phòng; dịch vụ
thông tin; tuyên
truyền; liên lạc, hội nghị, công tác phí; chi phí nghiệp vụ
chuyên môn của từng
ngành như ấn chỉ; đồng phục trang phục.
- Chi mua sắm, sửa
chữa: Các khoản chi mua đồ dùng, trang thiết bị, phương
tiện làm việc, sửa
chữa lớn tài sản cố định và xây dựng nhỏ.
- Chi khác: Gồm
những khoản chi thường xuyên không xếp vào nhóm trên.
Các khoản chi đầu
tư phát triển là
những khoản chi có thời hạn tác động
dài thường trên
một năm, hình thành nên những tài sản vật chất có khả năng tạo
được nguồn thu,
trực tiếp làm tăng cơ sở vật chất của đất nước.
Các khoản chi đầu
tư phát triển bao gồm:
- Chi đầu tư xây
dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có
khả năng thu hồi
vốn như: Các công trình giao thông, điện lực, bưu chính viễn
44
thông, các công
trình văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi công cộng... chi mua
hàng hoá, vật tư
dự trữ của Nhà nước; đầu tư hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp Nhà
nước; góp vốn cổ
phần liên doanh vào các doanh nghiệp cần thiết phải có sự
tham gia của Nhà
nước; chi cho các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án của
nhà nước.
- Các khoản chi
khác bao gồm những khoản chi còn lại không xếp được vào
nhóm chi kể trên
bao gồm như: chi trả nợ gốc và lãi; chi viện trợ; chi cho vay;
chi bổ sung quỹ
dụ trữ tài chính; chi bổ sung cho Ngân sách cấp dưới; chi
chuyển nguồn từ
ngân sách năm trước sang ngân sách năm sau.
Việc phân loại
các khoản chi thành chi thường xuyên và chi đầu tư phát
triển là rất cần
thiết trong quản lý ngân sách nhà nước. Nó cho phép đánh giá, so
sánh các khoản
chi thường xuyên phải bỏ ra cho các hoạt động quản lý kinh tế -
xã hội của nhà
nước làm cơ sở để xác định được hiệu quả hoạt động của đơn vị.
- Phân loại theo
tổ chức hành chính: Theo cách phân loại này chi ngân sách
được phân loại
theo đơn vị dự toán các cấp bao gồm; cấp I; cấp II; cấp III nhằm
làm rõ trách nhiệm
từng cấp trong quản lý ngân sách nói chung và kế toán, kiểm
toán và quyết
toán Ngân sách Nhà nước nói riêng.
- Đơn vị dự toán
cấp I là đơn vị trực tiếp nhận dự toán ngân sách hàng năm do
Thủ tướng Chính
phủ hoặc Uỷ ban Nhân dân giao. Đơn vị dự toán cấp I thực
hiện phân bổ,
giao dự toán ngân sách cho đơn vị cấp dưới trực thuộc; chịu trách
nhiệm trước Nhà
nước về việc tổ chức, thực hiện công tác kế toán và quyết toán
ngân sách của
đơn vị mình và công tác kế toán và quyết toán ngân sách của các
đơn vị dự toán cấp
dưới trực thuộc.
- Đơn vị dự toán
cấp II là đơn vị cấp dưới đơn vị dự toán cấp I, được đơn vị
toán cấp I giao
dự toán và phân bổ dự toán được giao cho đơn vị toán cấp III
(trường hợp được
uỷ quyền của đơn vị dự toán cấp I), chịu trách nhiệm tổ chức
thực hiện công
tác kế toán và quyết toán ngân sách của đơn vị mình và công tác
kế toán và quyết
toán của các đơn vị toán cấp dưới.
- Đơn vị dự toán
cấp III là đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách, được đơn vị toán
cấp I hoặc cấp
II giao dự toán ngân sách, có trách nhiệm tổ chức, thực hiện công
45
tác kế toán và
quyết toán ngân sách của đơn vị mình và đơn vị sử dụng ngân
sách trực thuộc
(nếu có).
- Đơn vị cấp dưới
của đơn vị dự toán cấp III được nhận kinh phí để thực hiện
phần công việc cụ
thể, khi chi tiêu phải thực hiện kế toán và quyết toán.
1.2.3. Mục lục
ngân sách nhà nước
Mục lục ngân
sách là bảng phân loại các khoản thu, chi ngân sách theo
những tiêu thức,
phương pháp nhất định nhằm giúp cho việc quản lý ngân sách
được hiệu quả, đảm
bảo minh bạch tài chính. hệ thống mục lục ngân sách hiện
tại của nước ta
được thiết kế dựa trên 3 cách phân loại trên: phân loại theo tổ
chức thực hiện
qua chương; theo chức năng (ngành kinh tế quốc dân) thể hiện
qua loại, khoản
và theo nhưng nội dung kinh tế thể hiện qua nhóm, tiểu nhóm,
mục, tiểu mục.
Các khoản thu, chi được phân loại trong mục lục ngân sách hệ
thống mã hoá 15
con số được minh hoạ như sau:
Phân loại
theo tổ
chức
Phân loại theo
chức năng Phân loại theo nội dung kinh tế
000 00 00 0 00
000 00
1, 2, 3 4, 5 6,
7 8 9, 10 11, 12, 13 14, 15
Chương Loại Khoản
Nhóm Tiểu nhóm Mục Tiểu mục
2. QUẢN LÝ CHU
TRÌNH NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1. Nguyên tắc
quản lý ngân sách Nhà nước
Nguyên tắc thống
nhất, tập trung dân chủ: Nguyên tắc này đòi hỏi: trong hoạt
động ngân sách,
một mặt, nó bảo đảm sự thống nhất ý chí và lợi ích qua huy
động và phân bổ
ngân sách để có được những hàng hoá. dịch vụ công cộng có
tính chất quốc
gia. Mặt khác, nó đảm bảo phát huy tính chủ động và sáng tạo
của các địa
phương, các tổ chức, cá nhân trong đảm bảo giải quyết các vấn đề
cụ thể, trong những
hoàn cảnh và cơ sở cụ thể. Tập trung ở đây không phải là
độc đoán, chuyên
quyền mà trên cơ sở phát huy dân chủ thực sự trong tổ chức
hoạt động ngân
sách của các cấp chính quyền, các ngành, các đơn vị. Nguyên
tắc này được
quán triệt thông qua sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các
46
cơ quan nhà nước
trong phân cấp quản lý ở cả ba khâu của chu trình ngân sách.
Nguyên tắc công
khai, minh bạch: Công
khai có nghĩa là để cho mọi người
biết, không giữ
kín. Minh bạch là làm cho mọi việc trở nên rõ ràng, dễ hiểu,
sáng sủa, không
thể nhằm lẫn được. Quản lý ngân sách đòi hỏi phải công khai,
minh bạch xuất
phát từ đòi hỏi chính đáng của người dân với tư cách là người
nộp thuế cho Nhà
nước.
Việc Nhà nước có
đảm bảo trách nhiệm trước dân về huy động và sử dụng các
nguồn thu hay
không phụ thuộc nhiều vào tính minh bạch của ngân sách. Điều
này cũng rất
quan trọng đối với nhà tài trợ, những người hiển nhiên sẽ không
hài lòng nếu sau
khi hỗ trợ tài chính cho một quốc gia lại không có đủ thông tin
về việc sử dụng
nó vào đâu, như thế nào? Những nhà đầu tư cũng cần có sự
minh bạch về
ngân sách để có thể đưa ra các quyết định đầu tư, cho vay...
Nguyên tắc đảm bảo
trách nhiệm: Với
tư cách là người được nhân dân "uỷ
thác" trong
việc sử dụng nguồn lực, Nhà nước phải đảm bảo trách nhiệm trước
nhân dân về toàn
bộ quá trình quản lý ngân sách, về kết quả thu, chi ngân sách.
Tính chịu trách
nhiệm bao gồm chịu trách nhiệm có tính chất nội bộ và
chịu trách nhiệm
ra bên ngoài. Chịu trách nhiệm nội bộ của nhà quản lý ngân
sách bao gồm chịu
trách nhiệm của cấp dưới với cấp trên, với người giám sát;
kiểm tra ngân
sách trong nội bộ Nhà nước.
Chịu trách nhiệm
ra bên ngoài muốn nói tới ở đây là tính chịu trách
nhiệm của các bộ,
ngành đối với khách hàng của mình như những người nộp
thuế hay đối tượng
được hưởng các dịch vụ y tế, giáo dục... Nâng cao tính chịu
trách nhiệm ra
bên ngoài đặc biệt cần thiết khi nhà nước gia tăng phí tập trung
hoá, tăng tự chủ
trong quản lý ngân sách cho các địa phương, bộ, ngành, đơn vị.
Điều này cũng được
thể hiện rõ trong luật ngân sách của Việt Nam. Quốc hội,
Hội đồng nhân
dân được bầu theo nhiệm kỳ và chịu trách nhiệm giải trình trước
toàn bộ cử tri về
ngân sách. Cơ quan hành pháp chịu trách nhiệm giải trình
trước cơ quan lập
pháp.
Nguyên tắc đảm bảo
cân đối ngân sách nhà nước: Cân đối ngân sách nhà
nước ngoài sự
cân bằng về thu, chi còn là sự hài hoà, hợp lý trong cơ cấu thu,
chi giữa các khoản
thu, chi; các lĩnh vực; các ngành; các cấp chính quyền thậm
47
chí ngay cả giữa
các thế hệ .
Đảm bảo cân đối
ngân sách từ một đòi hỏi có tính chất khách quan xuất
phát từ vai trò
nhà nước trong can thiệp vào nền kinh tế thị trường với mục tiêu
ổn định, hiệu quả
và công bằng. Thông thường, khi thực hiện ngân sách các
khoản thu dự kiến
sẽ không đủ để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Vì
vậy, tính toán
nhu cầu chi sát với khả năng thu trong khi lập ngân sách là rất
quan trọng. Các
khoản chi chỉ được phép thực hiện khi đã có đủ các nguồn thu
bù đắp.
2.2. Phân cấp quản
lý ngân sách nhà nước.
2.2.1. Khái niệm
phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Phân cấp quản lý
ngân sách là quá trình Nhà nước trung ương phân giao
nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm nhất định cho chính quyền địa phương trong
hoạt động quản
lý ngân sách.
Khi nói tới phân
cấp quản lý ngân sách nhà nước người ta thường hiểu
theo nghĩa trực
diện, dễ cảm nhận đó là việc phân giao nhiệm vụ thu, chi giữa
các cấp chính
quyền. Thực chất nội dung phân cấp rộng hơn nhiều. Nó giải
quyết các mối
quan hệ giữa chính quyền Nhà nước Trung ương và các cấp
chính quyền nhà
nước Địa phương trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến
hoạt động của
ngân sách nhà nước bao gồm 3 nội dung sau: Quan hệ về mặt chế
độ, chính sách;
Quan hệ vật chất về nguồn thu và nhiệm vụ chi; Quản hệ về
quản lý chu
trình ngân sách.
Về chế độ, chính
sách trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước cần
làm rõ những câu
hỏi sau: Cơ quan Nhà nước cấp nào có thẩm quyền ra các chế
độ, chính sách,
định mức, tiêu chuẩn thu, chi và đó là những loại chế độ nào?
Về nguyên tắc những
chế độ nếu đã do trung ương quy định thì các cấp
chính quyền địa
phương tuyệt đối không được tự tiện điều chỉnh hoặc vi phạm.
Ngược lại, trung
ương cũng phải tôn trọng thẩm quyền của các địa phương,
tránh can thiệp
làm mất đi tính tự chủ của họ.
Về quan hệ vật
chất trong phân chia nguồn thu và nhiệm vụ chi đây luôn
là vấn đề phức tạp
nhất, khó khăn nhất, gây nhiều bất đồng nhất trong quá trình
48
xây dựng và triển
khai các đề án phân cấp quản lý ngân sách.
Sự khó khăn này
bắt nguồn từ sự phát triển không đồng đều giữa các địa
phương, sự khác
biệt về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội giữa các vùng,
miền trong cả nước.
Vì vậy, bất kỳ
phương án phân chia, trợ cấp nào cũng khó làm hài lòng
các cấp chính
quyền địa phương. ổn định ngân sách trong một khoảng thời gian
và bổ sung theo
mục tiêu có lẽ là phương thức hữu hiệu để giảm bớt sự ỷ lại
cung như điều
hoà lợi ích giữa các địa phương.
Mối quan hệ
trong chu trình ngân sách nhà nước qua 3 khâu: lập ngân
sách; chấp hành
và quyết toán ngân sách cũng cần được phân định rõ ràng, tránh
tình trạng đùn đẩy
trách nhiệm giữa các cấp chính quyền.
2.2.2. Các
nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Để đảm bảo phân
cấp quản lý ngân sách đem lại kết quả tốt cần phải quán
triệt các nguyên
tắc sau đây:
Thứ nhất: Phù hợp với phân
cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh của nhà nước
và năng lực quản lý của mỗi cấp trên địa bàn.
Thứ hai: Đảm bảo vai trò
chủ đạo của ngân sách trung ương và vị trí độc
lập của ngân
sách địa phương trong hệ thống NSNN thống nhất.
Thứ ba: Đảm bảo nguyên tắc
công bằng trong phân cấp ngân sách nhà
nước.
Để giảm bớt khoảng
cách giàu, nghèo giữa các vùng, các địa phương,
rong quá trình
phân cấp cần đảm bảo cơ chế điều hoà, trợ cấp giữa trung ương
với địa phương,
giữa ngân sách cấp trên với ngân sách cấp dưới. Trợ cấp cân
đối và trợ cấp
có mục tiêu là hai phương thức tài trợ mà chính quyền cấp trên
thường sử dụng đối
với chính quyền cấp dưới.
2.2.3. Nội dung
phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
2.2.3.1. Quan hệ
giữa các cấp chính quyền về chính sách, chế độ
Về cơ bản Nhà nước
trung ương vẫn giữ vai trò quyết định các loại thu
như thuế, phí, lệ
phí, vay nợ và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu thực
hiện thống nhất
trong cả nước.
49
Ngoài các chế độ
tiêu chuẩn, định mức chi tiêu do Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ
trưởng Bộ Tài chính ban hành, đối với một số nhiệm vụ chi có
tính chất đặc
thù ở địa phương, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quyết định chế
độ chi ngân
sách, phù hợp với đặc điểm thực tế ở địa phương. Riêng những chế
độ chi có tính
chất tiền lương, tiền công, phụ cấp, trước khi quyết định phải có ý
kiến của Bộ quản
lý ngành, lĩnh vực.
Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh báo cáo Bộ Tài chính việc ban hành các chế độ
chi ngân sách ở
địa phương để tổng hợp và giám sát việc thực hiện. Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh
quyết định một số chế độ thu phí gắn với quản lý đất đai, tài
nguyên thiên
nhiên, gắn với chức năng quản lý hành chính Nhà nước của chính
quyền địa phương
và các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp
luật.
2.2.3.2. Quan hệ
các cấp về nguồn thu, nhiệm vụ chi
Ngân sách trung
ương hưởng các khoản thu tập trung quan trọng không
gắn trực tiếp với
công tác quản lý của địa phương như: thuế xuất, thuế nhập
khẩu, thu từ dầu
thô... hoặc không đủ căn cứ chính xác để phân chia như: thuế
thu nhập doanh
nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành.
Ngân sách địa
phương được phân cấp nguồn thu để đảm bảo chủ động
thực hiện những
nhiệm vụ được giao, gắn trực tiếp với công tác quản lý tại địa
phương như: thuế
nhà, đất, thuế môn bài, thuế chuyển quyền sử dụng đât, thuế
thu nhập đối với
người có thu nhập cao...
Ngân sách cấp
trên thực hiện nhiệm vụ bổ sung ngân sách cho ngân sách
cấp dưới dưới
hai hình thức: Bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu.
2.2.3.3. Quan hệ
giữa các cấp về quản lý chu trình ngân sách nhà nước
Ngoài các quyền
có tính truyền thống như: quyết định dự toán ngân sách
địa phương; phân
bổ ngân sách địa phương; phân bổ dự toán chi ngân sách cho
sở, ban, ngành
theo từng lĩnh vực cụ thể, quyết định số bổ sung từ ngân sách
cấp mình cho từng
ngân sách cấp dưới; trực tiếp phê chuẩn quyết toán ngân
sách địa phương
HĐND cấp tỉnh còn có nhiệm vụ:
Quyết định việc
phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân
50
sách ở địa
phương.
Quyết định tỷ lệ
% phân chia giữa ngân sách các cấp chính quyền địa
phương đối với
phần trăm ngân sách địa phương được hưởng từ các khoản thu
phân chia giữa
ngân sách trung ương với ngân sách địa phươngvà các khoản thu
có phân chia giữa
các cấp ngân sách ở địa phương.
2.3. Quản lý chu
trình ngân sách nhà nước
Một trong những
điểm khác biệt của quản lý ngân sách Nhà nước so với
các khu vực khác
như doanh nghiệp hay hộ gia đình là quản lý theo năm ngân
sách (còn gọi là
năm tài chính hay tài khoá).
Năm ngân sách là
giai đoạn mà trong đó dự toán thu, chi ngân sách được
Quốc hội quyết định
có hiệu lực thi hành.
Năm ngân sách ở
các nước ngày nay đều có thời hạn bằng một năm
dương lịch,
nhưng thời điểm bắt đầu và kết thúc năm ngân sách ở mỗi nước
khác nhau. Năm
ngân sách của Việt Nam cũng giống đại bộ phận các nước
Malayxia, Hàn Quốc,
Trung Quốc trùng với năm dương lịch (1/1N - 31/12N).
Tuy nhiên, cũng
có một số nước năm ngân sách có thời điểm bắt đầu và kết thúc
không giống như
vậy, ví dụ: Mỹ, Thái Lan từ 1/10 năm trước đến 30/9 năm sau;
Anh, Canada, Nhật
từ 1/4 năm trước đến 31/3 năm sau; Italia, Na Uy, Thụy
Điển từ 1/7 năm
trước đến 30/6 năm sau. Khi năm ngân sách này kết thúc cũng
là thời điểm bắt
đầu một năm ngân sách mới.
Chu trình ngân
sách hay còn gọi là quy trình ngân sách dùng để chỉ toàn
bộ hoạt động của
một ngân sách kể từ khi bắt đầu hình thành cho đến khi kết
thúc chuyển sang
ngân sách mới. Một chu trình ngân sách gồm 3 khâu nối tiếp
nhau, đó là: lập
ngân sách; chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách.
Chu trình ngân
sách thường bắt đầu từ trước một năm ngân sách và kết
thúc sau năm
ngân sách. Trong một năm ngân sách đồng thời diễn ra cả ba khâu
nối tiếp nhau,
đó là: chấp hành ngân sách của chu trình ngân sách hiện tại; quyết
toán ngân sách của
chu trình ngân sách trước đó và lập ngân sách cho chu trình
tiêp theo.
Chu trình ngân
sách bao gồm:
51
2.3.1. Lập dự
toán ngân sách nhà nước
Lập dự toán ngân
sách Nhà nước là quá trình xây dựng dự toán ngân sách
Nhà nước. Đây là
giai đoạn mà các cấp ngân sách căn cứ vào các chỉ thị của
Thủ tướng Chính
phủ, Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính ban hành lập dự
toán ngân sách
nhà nước và thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách nhà
nước cho các bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở
trung ương và Uỷ
ban nhân dân các tỉnh, thành phố thuộc trung ương
Sau khi nhận được
quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách của uỷ
ban nhân dân cấp
trên, uỷ ban nhân dân trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết
định dự toán
ngân sách địa phương và phương án bổ sung dự toán ngân sách
cấp mình, bảo đảm
dự toán ngân sách cấp xã được quyết định trước ngày 31
tháng 12 năm trước.
2.3.2. Chấp hành
ngân sách nhà nước: Nội dung tổ chức chấp hành ngân sách
nhà nước bao gồm:
Tổ chức thu ngân
sách nhà nước: Trên
cơ sở nhiệm vụ thu cả năm được
giao và nguồn
thu dự kiến phát sinh trong quý, cơ quan thu lập dự toán thu ngân
sách quý chi tiết
theo khu vực kinh tế, địa bàn và đối tượng thu chủ yếu, gửi cơ
quan tài chính
cuối quý.
Về nguyên tắc
toàn bộ các khoản thu của ngân sách nhà nước phải nộp
trực tiếp và Kho
bạc Nhà nước, trừ một số khoản cơ quan thu có thể thu trực
tiếp song phải định
kỳ nộp Kho bạc Nhà nước theo quy định.
Tổ chức chi ngân
sách nhà nước: Giai
đoạn này bao gồm các khâu:
Phân bổ và giao
dự toán chi ngân sách: Sau khi được Thủ tướng Chính
phủ, Uỷ ban nhân
dân giao dự toán ngân sách, các cơ quan Nhà nước ở trung
ương và địa
phương, các đơn vị dự toán cấp I tiến hành phân bổ và giao dự toán
chi ngân sách
cho các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc.
Lập nhu cầu chi
quý: Trên
cơ sở dự toán năm được giao, các đơn vị sử
dụng ngân sách lập
nhu cầu chi ngân sách quý (có chia ra tháng), chi tiết theo
các nhóm mục chi
như trên gửi Kho nạc Nhà nước và cơ quan tài chính cuối kỳ
trước để phối hợp
thực hiện chi trả cho đơn vị.
52
Cơ chế kiểm soát
chi: Các
đơn vị dự toán ngân sách và các tổ chức được
ngân sách Nhà nước
hỗ trợ thường xuyên phải mở tài khoản tại Kho bạc Nhà
nước theo hướng
dẫn của Bộ Tài chính, chịu sự kiểm tra của cơ quan tài chính
và Kho bạc Nhà
nước trong quá trình thanh toán, sử dụng kinh phí. Các khoản
thanh toán về cơ
bản theo nguyên tắc chi trả trực tiếp qua Kho bạc Nhà nước.
Điều chỉnh dự
toán ngân sách Nhà nước:Trong quá trình chấp hành
ngân sách, nếu
có sự thay đổi về nguồn thu và nhiệm vụ chi thì phải thực hiện
điều chỉnh dự
toán ngân sách như sau: Số tăng thu và số tiết kiệm chi so dự toán
được giao, được
sử dụng để giảm bội chi, tăng chi trả nợ, tăng chi đầu tư phát
triển, bổ sung
quỹ dự trữ tài chính, tăng dự phòng ngân sách. Nếu giảm thu so
với dự toán được
duyệt thì phải sắp xếp lại để giảm một số khoản chi tương
ứng. Trường hợp
số thu, chi biến động lớn so với dự toán cần điều chỉnh tổng
thể Chính phủ
trình Quốc hội, Uỷ ban nhân dân trình Hội đồng nhân dân cùng
cấp quyết định
điều chỉnh dự toán ngân sách.
2.3.3. Quyết
toán ngân sách nhà nước
Lập quyết toán
ngân sách Nhà nước thường được thực hiện theo phương
pháp lập từ cơ sở,
tổng hợp từ dưới lên. Cơ quan Tài chính cùng cấp thẩm
quyền quyết định
quyết toán năm của các đơn vị dự toán cấp I. Trường hợp đơn
vị dự toán cấp I
đồng thời là đơn vị sử dụng ngân sách, cơ quan Tài chính duyệt
quyết toán cho
đơn vị dự toán cấp I.
Bộ Tài chính thẩm
định quyết toán thu ngân sách nhà nước, báo cáo
quyết toán thu,
chi ngân sách địa phương; lập quyết toán thu, chi ngân sách
trung ương và tổng
hợp lập tổng quyết toán thu, chi ngân sách nhà nước (bao
gồm quyết toán
thu, chi ngân sách trung ương và quyết toán thu, chi ngân sách
địa phương)
trình Chính phủ xem xét để trình Quốc hội phê chuẩn; đồng gửi cơ
quan Kiểm toán
Nhà nước.
3. QUẢN LÝ THU
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
3. 1. Quản lý
thu thuế
3.1.1. Những vấn
đề cơ bản về thuế
3.1.1.1. Khái niệm
và đặc điểm của thuế
53
Khái niệm: thuế là một hình
thức động viên bắt buộc của nhà nước theo luật
định, thuộc phạm
trù phân phối, nhằm tập trung một bộ phận thu nhập của các
thể nhân và pháp
nhân vào gân sách Nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước và
phục vụ cho lợi ích công cộng.
Về nội dung vật
chất, thuế Nhà nước là một bộ phận của cải xã hội được
tập trung vào
ngân sách Nhà nước, mà thực chất là một bộ phận của cải từ khu
vực tư được chuyển
vào khu vực công nhằm trang trải các chi phí duy trì sự tồn
tại, hoạt động của
bộ máy nhà nước và câc chi phí công cộng đem lại lợi ích
chung cho cộng đồng.
Về bản chất kinh
tế xã hội, thuế nhà nước thuộc phạm trù phân phối của
cải xã hội chứa
đựng các quan hệ kinh tế xã hội giữa Nhà nước và các chủ thể
trong xã hội.
Các quan hệ kinh tế này nảy sinh một cách khách quan và có ý
nghĩa xã hội đặc
biệt là các thể nhân, pháp nhân phải chuyển giao bắt buộc một
phần của cải của
mình cho nhà nước theo đúng quy định do chính Nhà nước ban
hành mà không gắn
với bất kỳ sự ràng buộc nào về sự hoàn trả số thuế đã nộp
theo luật định
hoặc cung cấp trực tiếp hàng hoá và dịch vụ cho người nộp thuế
từ phía nhà nước.
Đặc điểm:
Thứ nhất, thuế là một khoản
thu của ngân sách Nhà nước mang tính bắt buộc.
Thứ hai, thuế là khoản
thu của ngân sách Nhà nước mang tính chất không hoàn
trả trực tiếp.
Thứ ba, thuế là một hình
thức phân phối của cải xã hội chứa đựng các yếu tố
chính trị – kinh
tế – xã hội.
3.1.1.2. Hệ thống
thuế và các tiêu thức thiết lập một hệ thống thuế
Các tiêu thức chủ
yếu để thiết lập một hệ thống thuế là:
Tính hiệu quả: Những khuyết tật
của nền kinh tế thị trường đã khẳng định
sự cần thiết phải
kết hợp giữa “Bàn tay vô hình” và sự can thiệp của nhà nước
đối với nền kinh
tế nhằm điều chỉnh và định hướng cho sự vận động của các
nguồn lực của toàn
xã hội để bảo đảm sự phát triển bền vững, hiệu quả và công
bằng.
54
Tính công bằng: Công bằng là một
yêu cầu khách quan trong quá trình
phát triển của
xã hội. Thuế có tác động đến lợi ích của mọi chủ thể trong xã hội.
Vì vậy, để đảm bảo
tính khả thi của hệ thống thuế và ổn định chính trị – kinh tế
– xã hội, tính
công bằng của hệ thống được đặt ra là tất yếu.
Tính ổn định: Tính ổn định hệ
thống thuế được hiểu là hệ thống thuế và
từng sắc thuế được
ban hành và thực thi trong thực tiễn trong một khoảng thời
gian thích hợp,
hạn chế việc sửa đổi bổ sung từng sắc thuế một cách thường
xuyên, ban hành
sắc thuế mới phải thông báo trước và có thời gian chuẩn bị
thực thi thích hợp.
Tính thuận tiện:
Tính
thuận tiện của hệ thống thuế được hiểu là hệ thống
thuế và từng sắc
thuế phải đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực thi, dễ quản lý và
có khả năng tự
điều chỉnh nhất định.
3.1.1.3. Phân loại
thuế
Số lượng các sắc
thuế trong hệ thống thuế của các quốc gia là không
giống nhau, nó
tuỳ thuộc vào tình độ phát triển kinh tế – xã hội và mục tiêu xây
dựng hệ thống
thuế của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể. Tuy vậy, các
nước khác nhau
có thể lựa chọn nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại các sắc
thuế.
Phân loại thuế
theo khả năng chuyển giao gánh nặng thuế:
- Một sắc thuế, mà
người nộp thuế theo luật định không có khả năng chuyển
giao số thuế họ
phải nộp theo luật định cho người khác chịu thì được gọi là thuế
trực thu. Thuộc
loại thuế trực thu trong hệ thống thuế hiện hành ở nước ta bao
gồm các sắc thuế
: thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế thu nhập
cá nhân.
- Ngược lại, một
sắc thuế, mà người nộp thuế theo luật định có khả năng chuyển
giao số thuế họ
phải nộp theo luật định cho người khác chịu thì được gọi là thuế
gián thu. Các sắc
thuế đánh vào tài sản sở hữu của các thể nhân và pháp nhân…
Thuộc loại thuế
gián thu trong hệ thống thuế hiện hành ở nước ta bao gồm các
sắc thuế : thuế
giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu và thuế
nhập khẩu …
55
Phân loại thuế
theo cơ sở đánh thuế: Cơ sở đánh thuế của một sắc thuế chỉ rõ
sắc thuế đó đánh
trên cái gì. Căn cứ vào cơ sở đánh thuế, hệ thống thuế của các
quốc gia thường
bao gồm : thuế thu nhập, thuế tiêu dùng và thuế tài sản.
Thuộc loại thuế
thu nhập bao gồm các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là thu
nhập. Thu nhập của
các thể nhân, pháp nhân có thể là thu nhập từ tiền lương,
tiền công; thu
nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh dưới dạng lợi nhuận, lợi
tức và các thu
nhập khác. Thu nhập là cơ sở đánh thuế có thể là của cá nhân
hoặc của một
doanh nghiệp, công ty. Vì vậy, thuế thu nhập cũng bao gồm nhiều
sắc thuế như thuế
lương, thuế thu nhập cá nhân, thuế TNDN…
Thuộc loại thuế
tiêu dùng bao gồm các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là
phần thu nhập được
đem ra tiêu dùng của các thể nhân, pháp nhân. Thu nhập
của các thể
nhân, pháp nhân có thể được đem ra tiêu dùng phục vụ cho đời sống
hoặc phục vụ cho
sản xuất kinh doanh. Thuế tiêu dùng bao gồm nhiều sắc thuế
khác nhau như
thuế doanh thu, thuế GTGT, thuế TTĐB…
Thuế tài sản là
loại thuế có cơ sở đánh thuế là giá trị tài sản của các thể
nhân, pháp nhân.
Tuy nhiên, không phải mọi tài sản, mà tuỳ thuộc vào mục tiêu
kinh tế – xã hội
trong từng thời kỳ mà mỗi quốc gia có sự lựa chọn đánh thuế tài
sản đối với những
tài sản nhất định. Tài sản của các thể nhân, pháp nhân có thể
biểu hiện dưới dạng
là chứng khoán, thương phiếu, nhà cửa, đất đai, máy móc,
xe cộ, thiết bị
kỹ thuật, nhãn hiệu… Thuộc loại thuế tài sản bao gồm nhiều sắc
thuế khác nhau
như thuế nhà, thuế đất và các sắc thuế đánh vào các tài sản khác.
3.1.2. Mục tiêu,
yêu cầu và các nguyên tắc quản lý thu thuế
3.1.2.1. Mục
tiêu quản lý thu thuế:
Một là, bảo đảm thực hiện
tốt nhất dự toán thuế đã được cơ quan quyền
lực Nhà nước quyết
định.
Hai là, bảo đảm các văn
bản pháp luật về thuế được thực thi một cách
nghiêm chỉnh
trong thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội.
Ba là, bảo đảm phát huy
được vai trò tích cực của thuế trong điều chỉnh
vĩ mô các hoạt động
kinh tế - xã hội theo mục tiêu của Nhà nước.
3.1.2.2. Yêu cầu
quản lý thu thuế
56
Để đạt được những
mục tiêu nói trên, quản lý thu thuế cần phải quán triệt
các yêu cầu cơ bản
sau:
Thứ nhất, thu đúng, thu đủ,
thu kịp thời theo luật định.
Thứ hai, vận dụng thống
nhất các văn bản pháp luật về thuế và xây dựng
các biện pháp quản
lý thu thuế phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội trong
từng thời kỳ, tạo
thuận lợi cho người thu và nộp thuế, tối thiểu hoá chi phí hành
thu.
Thứ ba, quản lý thu thuế
phải gắn với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế
- xã hội vĩ mô của
Nhà nước trong từng thời kỳ.
3.1.2.3. Các
nguyên tắc quản lý thu thuế
Nguyên tắc thống
nhất, tập trung dân chủ: Thống nhất, tập trung dân
chủ là nguyên tắc
chủ đạo trong quản lý kinh tế - xã hội nói chung và quản lý
ngân sách Nhà nước
nói riêng. Quản lý thu thuế là một trong những nội dung
quan trọng trong
quản lý ngân sách Nhà nước; mặt khác, thuế chứa đựng các
yếu tố chính trị
- kinh tế - xã hội sâu rộng, vừa gắn với lợi ích chung của toàn xã
hội, vừa tác động
đến lợi ích của các thể nhân và pháp nhân trong xã hội; vì vậy,
quản lý thu thuế
tất yếu cần phải tôn trọng nguyên tắc thống nhất, tập trung dân
chủ.
Nguyên tắc tiết
kiệm và hiệu quả: Trong quá trình quản lý thu nộp thuế
vào ngân sách
Nhà nước luôn phát sinh các chi phí từ phía cơ quan thuế và từ
phía các đối tượng
nộp thuế, vì vậy tiết kiệm và hiệu quả được đặt ra đối với
công tác quản lý
thu thuế là tất yếu khách quan.
Quản lý thu thuế
phải bảo đảm các chi phí phát sinh từ cơ quan thu và đối
tượng nộp thuế
là thấp nhất; số thuế tập trung vào ngân sách Nhà nước ở mức
cao nhất nhưng vẫn
bảo đảm nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu; hạn chế các
trường hợp trốn
thuế, lậu thuế, biển thủ tiền thuế và các gian lận khác về thuế...
Nguyên tắc phù hợp:
Quản
lý thu thuế phải bảo đảm phù hợp với thực
trạng kinh tế -
xã hội trong từng thời kỳ và thông lệ quốc tế.
Nguồn thu của thuế
chính là kết quả của các hoạt động kinh tế - xã hội; vì
vậy, thực trạng
kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ là cơ sở thực tiễn cho việc
57
xây dựng các văn
bản pháp luật về thuế và thiết lập các biện pháp quản lý thu
thuế phù hợp nhằm
bảo đảm cho tính thực thi của các văn bản pháp luật về thuế
trong thực tiễn
và bảo đảm hiệu quả của các biện pháp quản lý thu thuế. Mặt
khác, xu hướng vận
động tất yếu của các nền kinh tế trên thế giới là mở cửa và
hội nhập; vì vậy,
hệ thống thuế và các biện pháp quản lý thu thuế của một quốc
gia cần thiết phải
có sự phù hợp với thông lệ quốc tế.
3.1.3. Tổ chức
công tác quản lý thu thuế
Tổ chức công tác
quản lý thu thuế là nội dung cơ bản nhất trong quản lý
thu ngân sách
Nhà nước nhằm tập trung đây đủ, kịp thời các khoản thuế theo
luật định vào
ngân sách Nhà nước để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước theo đúng kế
hoạch và dự toán đã định.
Tổ chức công tác
quản lý thu thuế được thực hiện thông qua 3 khâu là lập
dự toán thuế, tổ
chức thực hiện dự toán thuế và quyết toán thuế.
3.1.3.1. Lập dự
toán thuế
Lập dự toán thuế
thực chất là việc tính toán xác định các chỉ tiêu tổng
hợp, chi tiết về
số thu thuế trong năm kế hoạch và các biệnpháp để tổ chức thực
hiện các chỉ
tiêu đó.
Trong quá trình
lập dự toán; cơ quan thuế, cơ quan hải quan cấp trên phải
tổ chức làm việc
để thảo luận về dự toán với các cơ quan thuế, cơ quan hải quan
cấp dưới trực
thuộc. UBND các cấp phối hợp và chỉ đạo cơ quan thuế, cơ quan
hải quan ở địa
phương lập dự toán thu ngân sách Nhà nước, dự kiến số phải
hoàn thuế GTGT
theo chế độ cho các doanh nghiệp trên địa bàn.
Dự toán thuế được
tổng hợp vào dự toán ngân sách Nhà nước trình Chính
phủ để trình Quốc
hội thảo luận và phê chuẩn. Căn cứ vào chỉ tiêu dự toán thuế
được giao; Tổng
cục thuế, Tổng cục Hải quan thực hiện phân bổ và giao dự toán
thu thuế chính
thức cho các Cục Thuế, Cục Hải quan.
Căn cứ vào quyết
định giao dự toán thu thuế của cơ quan thuế, cơ quan
hải quan cấp
trên; cơ quan thuế, cơ quan hải quan của địa phương phối hợp với
cơ quan tài
chính cùng cấp xây dựng dự toán thu thuế chính thức trình UBND
để trình HĐND
cùng cấp thảo luận và quyết định.
58
3.1.3.2. Chấp
hành dự toán thuế
Căn cứ dự toán
thu cả năm được giao, số đăng ký thuế và dự kiến các
khoản thu ngân
sách Nhà nước phát sinh trong quý; cơ quan thuế, cơ quan hải
quan lập dự toán
thu ngân sách Nhà nước quý thuộc phạm vi quản lý, chi tiết
theo từng nội
dung thu, từng sắc thuế, khu vực kinh tế, địa bàn và đối tượng thu
chủ yếu gửi cho
cơ quan tài chính và Kho bạc Nhà nước đồng cấp để làm căn cứ
điều hành và tổ
chức công tác thu ngân sách Nhà nước trước ngày 20 của tháng
cuối quý trước.
Công tác tổ chức
chấp hành dự toán thuế bao gồm các khâu sau:
3.1.3.2. Đăng
ký, kê khai và thu nộp thuế
Các đối tượng nộp
thuế theo quy định của pháp luật phải thực hiện đăng
ký nộp thuế với
cơ quan thuế theo mẫu hướng dẫn đăng ký nộp thuế của cơ
quan thuế. Cơ
quan thuế có trách nhiệm cấp mã số thuế và giấy chứng nhận
đăng ký thuế cho
các cơ sở kinh doanh đã thực hiện đăng ký nộp thuế với cơ
quan thuế. Trường
hợp đối tượng nộp thuế chưa được áp dụng chế độ tự kê khai
và tự nộp thuế
thì đối tượng nộp thuế thực hiện kê khai thuế và nộp tờ khai cho
cơ quan thuế
theo mẫu của cơ quan thuế.
3.1.3.3. Kế toán
và quyết toán thuế
Kế toán thuế là
việc ghi chép phản ánh số thuế phải thu, số thuế đã thu, số
thuế hoàn trả, số
thuế còn phải thu, số thuế truy thu, hàng hoá tạm giữ và tịch
thu, tình hình
quản lý cấp phát và sử dụng ấn chỉ trong quá trình tổ chức thu
thuế. Kế toán
thuế được thực hiện theo phương pháp ghi đơn. Nội dung cơ bản
của công tác kế
toán thuế:
- Kế toán thu nộp
tiền thuế nhằm xác định cơ sở cho công tác thu thuế,
theo dõi tình
hình thu nộp thuế đối với từng loại thuế và từng đối tượng nộp
thuế.
- Kế toán hàng
hoá tạm giữ và tịch thu của các đối tượng có hành vi gian
lận, trốn thuế
hoặc kinh doanh bất hợp pháp.
- Kế toán ấn chỉ.
Cuối năm ngân
sách, cơ quan thu và Kho bạc Nhà nước phải phối hợp dối
59
chiếu số liệu
thu thuế và giải quyết những tồn tại trong công tác tổ chức thu thuế
như hoàn trả các
khoản thuế, truy thu các khoản thuế ..., xử lý các khoản tạm
thu và tạm giữ...
Đồng thời cơ quan thu phải lập báo cáo quyết toán thu ngân
sách Nhà nước gửi
cơ quan thu cấp trên và cơ quan tài chính đồng cấp để tổng
hợp vào báo cáo
quyết toán ngân sách. Quyết toán thuế được thực hiện cùng với
quyết toán ngân
sách Nhà nước.
3.1.3.4. Thanh
tra thuế
Thanh tra thuế
bao gồm thanh tra đối tượng nộp thuế và thanh tra nội bộ
ngành thuế,
ngành hải quan.
- Thanh tra đối
tượng nộp thuế là nội dung cơ bản của công tác thanh tra
thuế và nhằm
ngăn chặn, xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật về thuế của
các đối tượng nộp
thuế. Nội dung thanh tra đối tượng nộp thuế bao gồm:
- Thanh tra việc
chấp hành những quy định của pháp luật về đăng ký và
kê khai nộp thuế.
- Thanh tra việc
chấp hành chế độ kế toán, lưu trữ số liệu và tài liệu kinh
doanh làm cơ sở
cho việc xác định số thuế phải nộp và số thuế được hoàn.
- Thanh tra việc
thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của các đối tượng nộp thuế
theo thời hạn
quy định của pháp luật.
Thanh tra trong
nội bộ ngành thuế và ngành hải quan nhằm bảo đảm cho
ngành, từng bộ
phận và từng cán bộ của ngành thực thi đúng chức năng, nhiệm
vụ của mình
trong công tác quản lý thu thuế theo quy định của pháp luật. Nội
dung thanh tra nội
bộ ngành thuế và ngành hải quan bao gồm:
- Thanh tra thực
hiện việc hướng dẫn thi hành các luật thuế, pháp lệnh
thuế và các văn
bản hướng dẫn thi hành.
- Thanh tra việc
thực hiện các nghiệp vụ quản lý thu thuế theo quy định
của pháp luật.
- Thanh tra việc
giải quyết các đơn thư khiếu tố, khiếu nại về thuế.
3.2. Quản lý thu
phí và lệ phí thuộc ngân sách Nhà nước
3.2.1. Một số vấn
đề cơ bản về phí và lệ phí thuộc ngân sách Nhà nước
3.2.1.1. Bản chất
và đặc điểm của phí và lệ phí
60
Phí là khoản thu
nhằm thu hồi chi phí đầu tư cung cấp các dịch vụ công
cộng không thuần
tuý theo quy định của pháp luật và là khoản tiền mà các tổ
chức, cá nhân phải
trả khi sử dụng các dịch vụ công cộng đó.
Lệ phí là khoản
thu gắn liền với việc cung cấp trực tiếp các dịch vụ hành
chính pháp lý của
Nhà nước cho các thể nhân, pháp nhân nhằm phục vụ cho
công việc quản
lý Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Các dịch vụ thu
phí theo quy định của pháp luật có thể do Nhà nước đầu
tư cung cấp và
cũng có thể do khu vực tư nhân đầu tư cung cấp. Phí thu từ các
dịch vụ do Nhà nước
đầu tư là khoản thu thuộc ngân sách Nhà nước. Phí thu
được từ các dịch
vụ không do Nhà nước đầu tư hoặc do Nhà nước đầu tư nhưng
đã chuyển giao
cho tổ chức, cá nhân thực hiện theo nguyên tắc hạch toán và tự
chủ tài chính là
khoản thu không thuộc ngân sách Nhà nước. Tiền thu phí không
thuộc ngân sách
Nhà nước được xác định là doanh thu của tổ chức, cá nhân thu
phí.
Các dịch vụ theo
quy định của pháp luật được phép thu lệ phí thuộc các
dịch vụ gắn với
công việc quản lý Nhà nước, vì vậy chỉ có cơ quan hoặc tổ chức
được uỷ quyền phục
vụ công việc quản lý Nhà nước theo quy định của pháp luật
mới được thu lệ
phí và lệ phí là khoản thu của ngân sách Nhà nước.
Phí thuộc ngân
sách Nhà nước và lệ phí là khoản thu bắt buộc và phát
sinh thường
xuyên của ngân sách Nhà nước. Song khác với thuế, phí thuộc ngân
sách Nhà nước và
lệ phí là khoản thu mang tính chất hoàn trả gắn trực tiếp với
việc hưởng thụ
các dịch vụ do Nhà nước đầu tư cung cấp có thu phí hoặc lệ phí
theo quy định của
pháp luật.
3.2.1.2. Phân loại
phí và lệ phí.
Phân loại phí, lệ
phí là việc sắp xếp các loại phí, các loại lệ phí có cùng
tính chất và đặc
điểm vào một loại dự theo những tiêu thức nhất định nhằm
phục vụ cho công
tác quản lý phí, lệ phí.
Phân loại phí
- Phân loại phí
căn cứ vào chủ thể đầu tư cung cấp dịch vụ thu phí và quản lý
thu phí:
61
Phí
thuộc ngân sách Nhà nước là phí thu từ các dịch vụ do Nhà nước đầu
tư cung cấp
nhưng chưa chuyển giao cho các tổ chức, cá nhân thực hiện
theo nguyên tắc
hạch toán.
Phí
không thuộc ngân sách Nhà nước là phí thu được từ các dịch vụ
không do Nhà nước
đầu tư hoặc do Nhà nước đầu tư nhưng đã chuyển
giao cho tổ chức,
cá nhân thực hiện theo nguyên tắc hạch toán. Tổ chức,
cá nhân thu phí
có quyền quản lý, sử dụng số tiền phí thu được theo quy
định của pháp luật.
- Phân loại phí
theo cấp quản lý thuộc bộ máy Nhà nước.
Phí
thuộc Trung ương quản lý là loại phí thuộc nguồn thu của ngân sách
Trung ương và do
các cơ quan, đơn vị thuộc Trung ương tổ chức thu.
Phí
thuộc địa phương quản lý là loại phí thuộc nguồn thu của ngân sách
địa phương và do
các cơ quan, đơn vị thuộc địa phương tổ chức thu.
- Phân loại phí
theo lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội.
Phí
phát sinh từ các lĩnh vực hoạt động kinh tế như phí bảo vệ nguồn lợi
thuỷ sản, phí thẩm
định đầu tư, phí thẩm định kinh doanh thương mại có
điều kiện...
Phí
phát sinh từ các lĩnh vực hoạt động văn xã như phí tham quan, phí
thẩm định văn
hoá phẩm, học phí, viện phí...
Phí
phát sinh từ các lĩnh vực khác như án phí, phí dịch vụ pháp lý...
Phân loại lệ phí
- Phân loại lệ
phí theo cấp quản lý thuộc bộ máy Nhà nước:
Lệ
phí thuộc Trung ương quản lý là loại lệ phí thuộc nguồn thu của ngân
sách Trung ương
và do các cơ quan, đơn vị thuộc Trung ương tổ chức
thu.
Lệ
phí thuộc địa phương quản lý là loại lệ phí thuộc nguồn thu của ngân
sách địa phương
và do các cơ quan, đơn vị thuộc địa phương tổ chức thu.
- Phân loại lệ
phí theo tính chất của các dịch vụ thu phí:
Lệ
phí quản lý Nhà nước liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân
như lệ phí quốc
tịch, lệ phí hộ khẩu, lệ phí cấp hộ chiếu...
62
Lệ
phí quản lý Nhà nước liên quan đến quyền sở hữu, quyền sử dụng tài
sản như lệ phí
trước bạ, lệ phí địa chính...
Lệ
phí quản lý Nhà nước liên quan đến sản xuất, kinh doanh như lệ phí
cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, lệ phí cấp giấy phép hành
nghề...
Lệ
phí Nhà nước đặc biệt về chủ quyền quốc gia như lệ phí bay qua vùng
trời, lệ phí hoa
hồng chữ ký...
Lệ
phí quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực khác như lệ phí công chứng,
lệ phí cấp văn bằng...
3.2.2. Quản lý
thu phí và lệ phí thuộc ngân sách Nhà nước
3.2.2.1. Phân cấp
thẩm quyền quy định về phí và lệ phí
Thẩm quyền quy định
về phí và lệ phí là thẩm quyền quy định mức thu,
chế độ thu nộp,
quản lý và sử dụng tiền phí và lệ phí. Phân cấp thẩm quyền quy
định phí và lệ
phí được thực hiện dựa vào tính chất và phạm vi ảnh hưởng của
từng loại phí, lệ
phí.
Việc phân cấp thẩm
quyền quy định về phí như sau:
- Chính phủ quy
định đối với một số phí quan trọng, có số thu lớn, liên quan đến
nhiều chính sách
kinh tế - xã hội của Nhà nước;
- Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định đối với
một số loại phí
gắn với quản lý đất đai, tài nguyên thiên nhiên, thuộc chức năng
quản lý hành
chính Nhà nước của chính quyền địa phương.
- Bộ Tài chính
quy định đối với các loại phí còn lại áp dụng thống nhất trong cả
nước.
Việc phân cấp thẩm
quyền quy định về lệ phí như sau:
- Chính phủ quy
định đối với một số lệ phí quan trọng, có số thu lớn, có ý
nghĩa pháp lý quốc
tế;
- Bộ Tài chính
quy định đối với những lệ phí còn lại.
3.2.2.2. Nguyên tắc
xác định mức thu phí và lệ phí
- Nguyên tắc xác
định mức thu phí:
Mức
thu phí đối với các dịch vụ do Nhà nước đầu tư phải bảo đảm thu
63
hồi vốn trong thời
gian hợp lý, có tính đến những chính sách của Nhà
nước trong từng
thời kỳ.
Mức
thu phí đối với các dịch vụ do tổ chức, cá nhân đầu tư vốn phải bảo
đảm thu hồi vốn
trong thời gian hợp lý, phù hợp với khả năng đóng góp
của người nộp.
- Nguyên tắc xác
định mức thu lệ phí:
Mức
thu lệ phí được ấn định trước bằng một số tiền nhất định đối với
từng công việc
quản lý Nhà nước được thu lệ phí, không nhằm mục đích
bù đắp chi phí để
thực hiện công việc thu lệ phí, phù hợp với thông lệ
quốc tế.
Tổ
chức được thu lệ phí có trách nhiệm xây dựng mức thu kèm theo văn
bản đề nghị thu
lệ phí gửi Bộ Tài chính để Bộ Tài chính trình Chính phủ
xem xét ban hành
hoặc Bộ Tài chính sẽ nghiên cứu, ban hành theo thẩm
quyền.
Riêng
lệ phí trước bạ, mức thu được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên giá trị
tài sản trước bạ
theo quy định của Chính phủ.
3.2.2.3. Đối tượng
nộp phí, lệ phí và các tổ chức, cá nhân được thu phí, lệ phí
Đối tượng nộp
phí và lệ phí là các thể nhân và pháp nhân được các tổ
chức, cơ quan của
Nhà nước cung cấp các dịch vụ công cộng theo quy định của
pháp luật có thu
phí hoặc lệ phí. Các thể nhân và pháp nhân là đầu tư nộp phí và
lệ phí có nhiệm
vụ thực hiện nộp phí, lệ phí theo đúng quy định của pháp luật.
Tất cả các khoản
phí và lệ phí phải được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền quy định mới
được thu. Các tổ chức, cá nhân được thu phí, lệ phí bao
gồm:
- Cơ quan Thuế
Nhà nước;
- Cơ quan Hải
quan;
- Cơ quan khác của
Nhà nước, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị
vũ trang nhân
dân, tổ chức khác và cá nhân cung cấp dịch vụ, thực hiện các đơn
vị theo quy định
của pháp luật được thu phí, lệ phí;
- Các tổ chức,
cá nhân được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền uỷ quyền
64
việc thu phí, lệ
phí.
3.2.2.4. Đăng
ký, kê khai thu nộp phí và lệ phí
Các tổ chức
(không phải là cơ quan thuế, cơ quan hải quan) và cá nhân
thu phí, lệ phí
phải đăng ký với cơ quan thuế địa phương về loại phí, lệ phí, địa
điểm thu, chứng
từ thu và việc tổ chức thu phí, lệ phí trong thời gian chậm nhất
là 10 ngày trước
khi bắt đầu thu phí, lệ phí; cụ thể;
- Tổ chức thu
phí, lệ phí trực thuộc Trung ương, tỉnh hoặc cấp tương
đương quản lý
đăng ký với Cục thuế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Tổ chức thu
phí, lệ phí trực thuộc quận, huyện, thị xã, thị trấn, xã,
phường hoặc cấp
tương đương quản lý và cá nhân thu phí, lệ phí đăng ký với
Chi cục thuế quận,
huyện.
Tổ chức, cá nhân
thu phí, lệ phí thực hiện kê khai, phí, lệ phí từng tháng
và nộp tờ khai
cho cơ quan thuế nơi đăng ký thu phí, lệ phí trong 5 ngày đầu của
tháng tiếp theo
để theo dõi, quản lý.
3.2.2.5. Quản lý
sử dụng tiền thu phí và lệ phí
Tiền phí, lệ phí
do cơ quan thuế trực tiếp tổ chức thu và trường hợp tổ
chức khác thu
phí, lệ phí đã được ngân sách Nhà nước bảo đảm kinh phí cho
hoạt động thu
phí, lệ phí theo dự toán hàng năm thì tổ chức thu phải nộp toàn bộ
số tiền phí, lệ
phí thu được vào ngân sách Nhà nước.
Trường hợp tổ chức
thu chưa được ngân sách Nhà nước bảo đảm kinh phí
cho hoạt động
thu phí, lệ phí hoặc tổ chức thu được uỷ quyền thu phí, lệ phí thì
tổ chức thu được
để lại một phần trong số tiền phí, lệ phí thu được để trang trải
chi phí cho việc
thu phí, lệ phí; phần tiền phí lệ phí còn lại phải nộp vào ngân
sách Nhà nước.
Phần phí, lệ phí để lại cho tổ chức thu để trang trải chi phí cho
việc thu phí, lệ
phí được tính theo tỷ lệ phần trăm trên tổng số tiền phí, lệ phí
thu được hàng
năm.
3.2.2.6. Thu nộp
tiền thu phí, lệ phí vào Kho bạc Nhà nước
Đối với phí, lệ
phí do cơ quan thuế thu thì đối tượng nộp phí, lệ phí trực
tiếp nộp vào Kho
bạc Nhà nước ở địa phương nơi thu theo hướng dẫn của cơ
quan thuế. Trường
hợp Kho bạc Nhà nước chưa tổ chức thu tiền phí, lệ phí trực
65
tiếp từ đối tượng
nộp thì cơ quan thuế thu tiền phí, lệ phí và cuối ngày phải làm
thủ tục nộp hết
số tiền phí, lệ phí đã thu trong ngày vào Kho bạc Nhà nước.
Đối với phí, lệ
phí do các cơ quan Nhà nước, tổ chức khác (ngoài cơ quan thuế)
thu thì cơ quan
Nhà nước, tổ chức thu phí, lệ phí được mở tài khoản tạm giữ
tiền phí, lệ phí
tại Kho bạc Nhà nước nơi thu để theo dõi, quản lý tiền phí, lệ
phí.
Tiền phí, lệ phí
nộp vào Kho bạc Nhà nước được phân chia cho các cấp
ngân sách và được
quản lý, sử dụng theo qui định của Luật ngân sách Nhà nước
và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
3.2.4. Kế toán,
quyết toán phí và lệ phí
Tổ chức, cá nhân
thu phí, lệ phí có trách nhiệm:
- Mở sổ sách kế
toán để theo dõi, phản ảnh việc thu, nộp và quản lý, sử
dụng số tiền
phí, lệ phí theo chế độ kế toán hiện hành của Nhà nước.
- Định kỳ báo
cáo quyết toán việc thu, nộp, sử dụng số tiền phí, lệ phí thu
được theo quy định
của Nhà nước đối với từng loại phí, lệ phid;
- Thực hiện chế
độ công khai tài chính theo quy định của pháp luật
Tổ chức, cá nhân
thu các loại phí, lệ phí khác nhau phải mở sổ sách kế
toán theo dõi hạch
toán và báo cáo quyết toán riêng đối với từng loại phí, lệ phí.
Quyết toán phí,
lệ phí thuộc ngân sách Nhà nước thực hiện cùng thời gian
với quyết toán
ngân sách Nhà nước. Cơ quan thuế thực hiện quyết toán số thu
theo biên lai, tổng
số thu, số được dể lại, số phải nộp ngân sách Nhà nước. Cơ
quan tài chính,
cơ quan thuế quyết toán số chi từ nguồn thu phí, lệ phí được để
lại đơn vị theo
quy định của Bộ Tài chính đối với từng loại phí, lệ phí.
3.3. Quản lý các
khoản thu khác của ngân sách Nhà nước
Để quản lý và điều
tiết các hoạt động kinh tế - xã hội, chính phủ các quốc
gia đều tham gia
trực tiếp vào các hoạt động kinh tế - xã hội ở mức độ nhất định
như đầu tư, tài
trợ, góp vốn ... Việc Nhà nước tham gia trực tiếp vào các hoạt
động kinh tế của
Nhà nước như thu từ lợi tức góp vốn cổ phần của Nhà nước,
thu hồi vốn của
Nhà nước đầu tư vào các cơ sở kinh tế và tiền bán hoặc cho thuê
tài nguyên công
sản nhất định cho các chủ thể ở trong nước hoặc ngoài nước.
66
Tiền bán hoặc
cho thuê tài nguyên công sản quốc gia như tiền bán nhà thuộc sở
hữu nhà nước, tiền
bán tài nguyên... là khoản thu của ngân sách Nhà nước.
Ngoài các khoản
thu trên, thu ngân sách Nhà nước còn bao gồm các
khoản đóng góp tự
nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước; các
khoản viện trợ
không hoàn lại bằng tiền, hiện vật của chính phủ các nước, các tổ
chức và cá nhân ở
nước ngoài; các khoản đóng góp tự nguyện khác theo quy
định của pháp luật.
Các khoản thu này phát sinh không thường xuyên và không
lớn, nhưng có
tính chất không hoàn trả, nên chúng có tác dụng quan trọng bổ
sung tăng cường
thêm nguồn lực tài chính cho ngân sách Nhà nước.
Các khoản thu
khác của ngân sách Nhà nước nói trên được thu nộp trực
tiếp vào Kho bạc
Nhà nước hoặc thu nộp qua cơ quan thu theo các quy định
hiện hành đối với
từng khoản thu.
4. QUẢN LÝ CHI
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
4.1. Quản lý chi
đầu tư phát triển của ngân sách Nhà nước
4.1.1. Khái niệm,
nội dung và đặc điểm chi đầu tư phát triển.
4.1.1.1. Khái niệm:
Chi
đầu tư phát triển của ngân sách Nhà nước là quá trình
phân phối và sử
dụng một phần vốn tiền tệ từ ngân sách Nhà nước để đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất và dự trữ vật tư hàng hoá
của Nhà nước, nhằm
thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế
và phát triển xã hội.
4.1.1.2. Nội
dung chi đầu tư phát triển của ngân sách Nhà nước
Chi đầu tư phát
triển của ngân sách Nhà nước bao gồm nhiều khoản chi
với những mục
đích khác nhau, có tính chất và đặc điểm khác nhau. Để phục vụ
cho công tác quản
lý, người ta có thể dựa vào những tiêu thức nhất định để xác
định nội dung
chi đầu tư phát triển cụ thể của ngân sách Nhà nước.
Căn cứ vào mục
đích của các khoản chi thì nội dung chi đầu tư phát triển
của ngân sách
Nhà nước bao gồm:
- Chi đầu tư xây
dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
không có khả
năng thu hồi vốn nhằm phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
của nền kinh tế
quốc dân, đảm bảo các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện
67
các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội như: các công trình giao thông (đường
bộ, đường sắt,
đường thuỷ, đường không ... ); bưu chính viễn thông, điện lực,
cấp thoát nước;
các công trình giáo dục, khoa học công nghệ, y tế, văn hoá, thể
thao, công sở của
các cơ quan Nhà nước, phúc lợi công cộng ....
- Chi đầu tư và
hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ
chức tài chính của
Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh
nghiệp thuộc
lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của
pháp luật. Những
khoản chi này nhằm thực hiện vai trò dẫn dắt, điều chỉnh và
định hướng cho sự
phát triển của nền kinh tế theo đúng mục tiêu của Nhà nước
trong từng thời
kỳ, đảm bảo sự phát triển ổn định và hiệu quả của nền kinh tế quốc
dân.
- Chi dự trữ Nhà
nước là khoản chi để mua hàng hoá vật tư dự trữ Nhà
nước có tính chiến
lược của quốc gia hoặc hàng hoá, vật tư dự trữ Nhà nước
mang tính chất
chuyên ngành. Chi dự trữ Nhà nước có vai trò đặc biệt quan
trọng để ổn định
sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân dân khi nền kinh tế
gặp phải những
biến cố bất ngờ như thiên tai, dịch bệnh, địch hoạ ...
- Chi đầu tư
phát triển thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án
Nhà nước như
chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, chương
135, dự án trồng
mới 5 triệu ha rừng...
- Các khoản chi
đầu tư phát triển khác.
Căn cứ vào tính
chất của các hoạt động đầu tư phát triển thì chi đầu tư
phát triển của
ngân sách Nhà nước bao gồm:
- Chi đầu tư xây
cơ bản của ngân sách Nhà nước là các khoản chi để đầu
tư xây dựng các
công trình thuộc kết cáu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả
năng thu hồi vốn,
các công trình của các doanh nghiệp Nhà nước đầu tư theo kế
hoạch được duyệt,
các dự án quy hoạch vùng và lãnh thổ ... . Thực chất chi đầu
tư xây dựng cơ bản
của ngân sách Nhà nước là qúa trình phân phối và sử dụng
một phần vốn tiền
tệ từ quỹ ngân sách Nhà nước để đầu tư tái sản xuất tài sản cố
định nhằm từng
bước tăng cường, hoàn thiện và hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ
thuật và năng lực
sản xuất phục vụ của nền kinh tế quốc dân.
68
- Các khoản chi
đầu tư phát triển không có tính chất đầu tư xây dựng cơ
bản như chi cấp
vốn ban đầu, cấp bổ sung vốn pháp định hoặc vốn điều lệ cho
các doanh nghiệp
Nhà nước; hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện
cổ phần hoá; chi
cấp vốn điều lệ và cấp vốn bổ sung cho các tổ chức tài chính
của Nhà nước;
chi mua hàng hóa, vật tư, thiết bị dự trữ nhà nước; chi góp vốn
cổ phần, góp vốn
liên doanh của Nhà nước; chi trợ cấp, trợ giá hoặc các chế ưu
đãi khác cho các
doanh nghiệp khi thực hiện nhiệm vụ hoạt động công ích ...
4.1.1.3. Đặc điểm
chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước
Chi đầu tư phát
triển là khoản chi lớn của ngân sách Nhà nước nhưng không
có tính ổn định.
Chi đầu tư phát
triển từ ngân sách Nhà nước là yêu cầu tất yếu nhằm đảm
bảo cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Trước hết, chi đầu tư
phát triển của
ngân sách Nhà nước nhằm để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, năng
lực sản xuất phục
vụ và vật tư hàng hoá dự trữ cần thiết của nền kinh tế; đó
chính là nền tảng
bảo đảm cho sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Đồng thời, chi đầu
tư phát triển của ngân sách Nhà nước còn có ý nghĩa là vốn
mồi để tạo ra
môi trường đầu tư thuận lợi nhằm thu hút các nguồn vốn trong
nước và ngoài nước
vào đầu tư phát triển các hoạt động kinh tế - xã hội theo
định hướng của
Nhà nước trong từng thời kỳ. Tuy vậy, cơ cấu chi đầu tư phát
triển cảu ngân
sách Nhà nước lại không có tính ổn định giữa các thời kỳ phát
triển kinh tế -
xã hội. Thứ tự và tỷ trọng ưu tiên chi đầu tư phát triển của ngân
sách Nhà nước
cho từng nội dung chi, cho từng lĩnh vực kinh tế - xã hội thường
có sự thay đổi
giữa các thời kỳ.
Xét theo mục
đích kinh tế - xã hội và thời hạn tác động thì chỉ cần đầu tư
phát triển của
ngân sách Nhà nước mang tính chất chi cho tích luỹ.
Chi đầu tư phát
triển là những khoản chi nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ
thuật, năng lực
sản xuất phục vụ, tăng tích luỹ tài sản của nền kinh tế quốc dân.
Cơ sở vật chất kỹ
thuật, năng lực sản xuất phục vụ được tạo ra thông qua các
khoản chi đầu tư
phát triển của ngân sách Nhà nước là nền tảng vật chất bảo
69
đảm cho sự tăng
trưởng kinh tế và phát triển xã hội, làm tăng tổng sản phẩm
quốc nội. Với ý
nghĩa đó, chi đầu tư phát triển của ngân sách Nhà nước là chi
cho tích luỹ.
Xét theo phạm vi
và mức độ chi đầu tư phát triển của ngân sách Nhà nước
luôn gắn liền với
việc thực hiện mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà
nước trong từng
thời kỳ.
Chi ngân sách
Nhà nước cho đầu tư phát triển là nhằm để thực hiện các
mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ. Kế hoạch
phát triển kinh
tế - xã hội là cơ sở nền tảng trong việc xây dựng kế hoạch chi
đầu tư phát triển
từ ngân sách Nhà nước. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của Nhà nước
trong từng thời kỳ có ý nghĩa quyết định đến mức độ và thứ tự ưu
tiên chi ngân
sách Nhà nước cho đầu tư phát triển. Chi đầu tư phát triển của
ngân sách Nhà nước
gắn với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội nhằm bảo đảm
phục vụ tốt nhất
việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và hiệu quả
chi đầu tư phát
triển.
4.1.2.Quản lý
chi đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách Nhà nước
4.1.2.1. Những vấn
đề chung về quản lý chi đầu tư xây dựng cơ bản của ngân
sách nhà nước
- Chi phí đầu tư
và xây dựng các công trình thuộc các dự án đầu tư sử
dụng ngân sách
nhà nước
Cấp phát thanh
toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách Nhà nước
nhằm để trang trải
các chi phí đầu tư và xây dựng các công trình thuộc các dự
án đầu tư sử dụng
nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Nhà nước thực hiện
quản lý chi phí đầu tư và xây dựng các công trình
thuộc dự án đầu
tư thông qua việc ban hành các chế độ chính sách, các nguyên
tắc và phương
pháp lập đơn giá, dự toán; các định mức kinh tế kỹ thuật; định
mức chi phí tư vấn
đầu tư và xây dựng và suất vốn đầu tư để xác định tổng mức
vốn đầu tư dự
án, tổng dự toán và dự toán công trình. Điều chỉnh tổng mức đầu
tư dự án phải được
người quyết đầu tư cho phép và được thẩm định lại đối với
các phần thay đổi
so với tổng mức đầu tư đã phê duyệt.
70
Tổng dự toán xây
dựng công trình của dự án là toàn bộ chi phí cần thiết
để đầu tư xây dựng
công trình được xác định trong giai đoạn thiết kế kỹ thuật
(trường hợp thiết
kế 3 bước) hoặc thiết kế bản vẽ thi công (trường hợp thiết kế 1
bước và 2 bước).
Tổng dự toán xây dựng công trình của dự án bao gồm:
1. Chi phí xây lắp
công trình xây dựng: Giá trị dự toán xây lắp hạng mục
công trình, công
trình xây dựng phản ánh toàn bộ chi phí cần thiết để thực hiện
công tác xây dựng
và lắp đặt (gồm cả thí nghiệm và hiệu chỉnh) thiết bị của
hạng mục công
trình, công trình.
Giá trị chi phí
xây lắp hạng mục công trình, công trình bao gồm chi phí
trực tiếp, chi
phí chung, thu nhập chịu thuế tính trước và thuế giá trị giá tăng
đầu ra.
2. Chi phí mua sắm
thiết bị công trình xây dựng: Vốn mua sắm thiết bị
của công trình
xây dựng là vốn dùng để trang trải các chi phí về mua sắm thiết
bị của công
trình xây dựng. Chi phí mua sắm thiết bị của công trình xây dựng
bao gồm toàn bộ
những chi phí hợp pháp, hợp lệ cấu thành nên giá trị thiết bị
công trình.
3. Chi phí khác
của công trình xây dựng: Vốn chi phí khác là vốn dùng
để trang trải
các chi phí khác của công trình xây dựng. Chi phí khác của công
trình xây dựng
là toàn bộ các chi phí cần thiết cho các giai đoạn của quá trình
đầu tư và xây dựng
công trình, nhưng không thuộc chi phí xây dựng và chi phí
thiết bị của
công trình.
- Nguyên tắc quản
lý và cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân
sách Nhà nước
Chi đầu tư xây dựng
cơ bản là một khoản chi lớn và chiếm tỷ trọng
chủ yếu trong tổng
nguồn vốn chi đầu tư phát triển của ngân sách Nhà nước. Sự
vận động của tiền
vốn dùng để trang trải chi phí đầu tư xây dựng cơ bản chịu
chi phối trực tiếp
bởi đặc điểm của đầu tư xây dựng cơ bản vì vậy: việc quản lý
và cấp phát vốn
đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách Nhà nước phải bảo đảm
các nguyên tắc
sau:
71
Đúng đối tượng:
Cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách
Nhà nước được thực
hiện theo phương thức cấp phát không hoàn trả nhằm đảm
bảo vốn để đầu
tư các dự án cần thiết phải đầu tư thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế –
xã hội, quốc
phòng an ninh...; từ kết cấu đó tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cần
thiết cho sự
phát triển toàn diện và cân đối của nền kinh tế quốc dân.
Đúng mục đích,
đúng kế hoạch: Nguồn vốn ngân sách Nhà nước đầu tư
cho các công
trình, dự án được xác định trong kế hoạch NSNN hàng năm dựa
trên kế hoạch
phát triển kinh tế – xã hội của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, kế
hoạch xây dựng
cơ bản của từng bộ, ngành, địa phương, từng đơn vị cơ sở và
khả năng nguồn vốn
của ngân sách Nhà nước. Vì vậy, cấp phát vốn đầu tư xây
dựng cơ bản của
NSNN đúng mục đích, đúng kế hoạch nhằm tuân thủ đúng
nguyên tắc quản
lý NSNN và đảm bảo tính kế hoạch, cân đối của toàn bộ nền
kinh tế quốc
dân, của từng ngành, từng lĩnh vực và từng địa phương.
Theo mức độ khối
lượng thực tế và hoàn thành kế hoạch và chỉ trong
phạm vi giá trị
dự toán được duyệt: Sản phẩm xây dựng cơ bản có vốn đầu tư
lớn, thời gian
xây dựng dài, kết cấu kỹ thuật phức tạp. Quản lý và cấp vốn theo
khối lượng thực
tế hoàn thành kế hoạch nhằm đảm bảo vốn cho qúa trình đầu tư
xây dựng cơ bản
được tiến hành liên tục đúng kế hoạch và tiến độ, kiểm tra chặt
chẽ được chất lượng
từng khối lượng xây dựng cơ bản và chất lượng công trình
hoàn thành, đảm
bảo vốn đầu tư được sử dụng đúng mục đích và có vật tư đảm
bảo, tránh ứ đọng
và gây thất thoát và lãng phí vốn đầu tư.
Giám đốc bằng đồng
tiền: Kiểm tra bằng đồng tiền đối với việc sử dụng
tiền vốn đúng mục
đích, đúng kế hoạch, có hiệu quả là sự thể hiện chức năng
của tài chính.
Thực hiện công tác Giám đốc trong quá trình cấp phát vốn đầu tư
có tác dụng đảm
bảo sử dụng tiền vốn tiết kiệm đúng mục đích, đúng kế hoạch
và thúc đẩy các
đơn vị thực hiện tốt trình tự đầu tư và xây dựng, kế hoạch tiến
độ thi công, đảm
bảo chất lượng công trình và hoàn thành công trình đúng thời
hạn để đưa vào sản
xuất sử dụng.
Các nguyên tắc
quản lý và cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân
sách Nhà nước là
một thể thống nhất, chi phối toàn bộ công tác quản lý và cấp
72
phát vốn đầu tư
xây dựng cơ bản. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và là
điều kiện tiền đề
để thực hiện lẫn nhau.
- Điều kiện cáp
phát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản của
ngân sách nhà nước
- Dự án đầu tư
phải được ghi vào kế hoạch đầu tư hàng năm của Nhà nước.
- Dự án đầu tư
phải được thông báo kế hoạch vốn đầu tư năm bằng nguồn vốn
ngân sách Nhà nước.
- Dự án đầu tư
phải có đủ tài liệu cần thiết làm căn cứ cấp phát thanh toán vốn
đầu tư gửi tới
kho bạc Nhà nước.
4.1.2.2. Lập và
điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân
sách Nhà nước
4.1.2.3. Cấp
phát thanh toán vốn đầu tư đối với các công trình thuộc dự án đầu
tư sử dụng nguồn
vốn ngân sách Nhà nước
Cấp phát thanh
toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách Nhà nước
bao gồm cấp phát
tạm ứng, thu hồi tạm ứng và cấp phát thanh toán khối lượng
xây dựng cơ bản
hoàn thành.
Cấp phát thanh
toán vốn đầu tư cho các công việc, nhóm công việc hoặc toàn bộ
công việc lập dự
án, khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng, giám sát và các loại
hoạt động xây dựng
khác phải căn cứ theo giá trị khối lượng thực hiện theo giai
đoạn và nội dung
phương thức thanh toán trong hợp đồng đã ký kết. Chi phí cho
công tác chuẩn bị
đầu tư được tính vào tổng mức đầu tư, tổng dự toán khi dự án
được phê duyệt.
Nếu dự án không được thực hiện thì chi phí này được quyết
toán vào kinh
phí sự nghiệp thuộc các cơ quan hành chính sự nghiệp hoặc quyết
toán vào vốn
ngân sách Nhà nước đã bố trí cho dự án trong kế hoạch để thanh
toán.
Cấp phát thanh
toán vốn đầu tư xây dựng công trình được thực hiện trên
cơ sở nội dung,
phương thức thanh toán trong hợp đồng đã ký kết và khối lượng
thực hiện. Tùy
theo thời gian thực hiện hợp đồng, tính chất hợp đồng, các bên
tham gia thoả
thuận áp dụng một phương thức hoặc kết hợp các phương thức
thanh toán sau:
73
- Cấp phát thanh
toán theo giá trọn gói: Kho bạc Nhà nước cấp phát vốn
đầu tư cho chủ đầu
tư thanh toán cho nhà thầu theo giá khoán gọn trong hợp
đồng, áp dụng
cho gói thầu xác định rõ về khối lượng, chất lượng và thời gian
thực hiện. Trường
hợp có những phát sinh ngoài hợp đồng nhưng không do nhà
thầu gây ra sẽ
được người quyết định đầu tư xem xét, giải quyết theo các điều
khoản quy định
trong hợp đồng đã ký. Số lần cấp phát thanh toán có thể theo
giai đoạn, theo
phần công việc hoàn thành hoặc cấp phát thanh toán một lần khi
hoàn thành toàn
bộ hợp đồng.
- Cấp phát thanh
toán theo đơn giá cố định: Kho bạc Nhà nước cấp phát
vốn đầu tư cho
chủ đầu tư thanh toán cho nhà thầu các công việc hoàn thành
theo đơn giá xác
định trước trong hợp đồng. Giá trị được thanh toán xác định
bằng cách nhân
khối lượng hoàn thành thực tế với đơn giá xác định trước trong
hợp đồng.
- Cấp phát thanh
toán theo giá điều chỉnh được áp dụng cho những gói
thầu mà tại thời
điểm ký hợp đồng không đủ điều kiện xác định chính xác về số
lượng, khối lượng
hoặc có biến động lớn về giá cả do Nhà nước thay đổi hoặc
Nhà nước điều chỉnh,
bổ sung các cơ chế, chính sách và hợp đồng có thời gian
thực hiện trên
12 tháng.
4.1.3. Quản lý
các khoản chi đầu tư phát triển khác của ngân sách Nhà nước
4.1.3.1. Quản lý
chi đầu tư vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước
Trong nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, việc đầu tư
thành lập các
doanh nghiệp Nhà nước và hỗ trợ tài chính từ ngân sách Nhà nước
cho các doanh
nghiệp Nhà nước thuộc lĩnh vực, ngành nghề cần thiết nhằm thực
hiện vai trò định
hướng, điều tiết nền kinh tế quốc dân của Nhà nước.
Doanh nghiệp Nhà
nước được thành lập mới ở những ngành, lĩnh vực,
địa bàn sau:
- Ngành, lĩnh vực
cung cấp sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho xã hội;
- Ngành, lĩnh vực
ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triên nhanh
cho các ngành
lĩnh vực khác và toàn bộ kinh tế, đòi hỏi đầu tư lớn;
- Ngành, lĩnh vực
có lợi thế cạnh tranh cao;
74
- Địa bàn có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn ma các thành
phần kinh tế
khác không đầu tư.
Doanh nghiệp Nhà
nước mới thành lập theo quyết định của cơ quan có
thẩm quyền được
ngân sách Nhà nước đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ
ban đầu nhưng
không thấp hơn tổng mức vốn pháp định quy định cho ngành
nghề mà doanh
nghiệp kinh doanh nếu có. Căn cứ vào quyết định thành lập
doanh nghiệp Nhà
nước của cấp có thẩm quyền, toàn bộ hoặc một phần nhu cầu
của vốn điều lệ
để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kịnh doanh của các doanh
nghiệp Nhà nước
được ngân sách Nhà nước cấp phát một lần khi mới thành lập.
4.1.3.2. Quản lý
chi trợ cấp tài chính và trợ giá đối với doanh nghiệp
Đối tượng được
chi trợ cấp tài chính, trợ giá sản phẩm từ ngân sách Nhà
nước là các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khi tham gai thực hiện
các nhiệm vụ hoạt
động công ích, quốc phòng, an ninh, phòng chống thiên tai
hoặc cung cấp sản
phẩm, dịch vụ theo chính sách của Nhà nước.
Các doanh nghiệp
khi tham gia hoạt động công ích, quốc phòng, an ninh,
phòng chống
thiên tai hoặc cung cấp sản phẩm, dịch vụ theo chính sách giá cả
của Nhà nước được
xét trợ cấp hoặc trợ giá từ ngân sách Nhà nước phải đảm
bảo các điều kiện
sau:
- Được cấp có thẩm
quyền giao kế hoạch thực hiện nhiệm vụ hoạt động
công ích, quốc
phòng, an ninh, phòng chống thiên tai hoặc cung cấp sản phẩm,
dịch vụ theo
chính sách giá cả của Nhà nước;
- Mặt hàng, dịch
vụ thuộc danh mục trợ cấp, trợ giá;
- Đảm bảo số lượng,
chất lượng, thời gian thực hiện nhiệm vụ được giao
hoặc đặt hàng của
Nhà nước;
- Mức trợ cấp,
trợ giá phải được cơ quan có thâm quyền quyết định;
- Thực hiện đầy
đủ các quy định về chế độ quản lý tài chính và thu nộp
ngân sách Nhà nước.
Hàng năm, căn cứ
vào quy định và hướng dẫn của Bộ Tài chính, nhiệm
vu sản xuất sản
phẩm và cung ứng dịch vụ Nhà nước giao; các doanh nghiệp
xây dựng kế hoạch
thu chi tài chính, trong đó có kế hoạch trợ cấp tài chính, trợ
75
giá sản phẩm báo
cáo cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp và cơ quan tài
chính đồng cấp.
Căn cứ vào dự toán chi ngân sách hàng năm được duyệt, cơ
quan quyết định
thành lập doanh nghiệp có trách nhiệm thẩm tra và trình quan
cấp có thẩm quyền
xem xét quyết định mức trợ cấp tài chính, trợ giá sản phẩm
đối với từng
doanh nghiệp.
4.2. Quản lý chi
thường xuyên của ngân sách Nhà nước
4.2.1. Nội dung,
đặc điểm chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước
4.2.1.1. Nội
dung chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước
Chi thường xuyên
của ngân sách Nhà nước là qúa trình phân phối, sử
dụng vốn ngân
sách Nhà nước để đáp ứng cho các nhu cầu chi gắn liền với thực
hiện các nhiệm vụ
của Nhà nước về lập pháp, hành pháp, tư pháp và một số dịch
vụ công cộng
khác mà Nhà nước vẫn phải cung ứng.
Cùng với quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, các nhiệm vụ thường
xuyên mà Nhà nước
phải đảm nhận ngày càng tăng, đã làm phong phú thêm nội
dung chi thường
xuyên của ngân sách Nhà nước. Tuy vậy, trong công tác quản
lý chi người ta
có thể lựa chọn một số cách phân loại các hình thức chi để tập
hợp chúng vào nội
dung chi thường xuyên nhanh và thống nhất.
- Xét theo từng
lĩnh vực chi
Theo tiêu thức
này, nội dung chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước
bao gồm:
- Chi cho hoạt động
sự nghiệp văn - xã như: các đơn vị sự nghiệp Giáo
dụ - Đào tạo; sự
nghiệp Y tế; sự nghiệp Văn hoá - Nghệ thuật; Thể dục - Thể
thaol Thông tấn,
báo chí; Phát thanh - Truyền hình; v.v., mọt khi các đơn vị đó
do Nhà nước
thành lập và giao nhiệm vụ cho nó hoạt động. Tuy nhiên, mức
cấp kinh phí cho
mỗi đơn vị phải đảm nhận và cơ chế quản lý tài chính mà Nhà
nước cho phép mỗi
đơn vj thuộc hoạt động sự nghiệp văn - xã được phép áp
dụng và hiện
đang có hiệu lực thi hành.
- Chi cho các hoạt
động sự nghiệp kinh tế của Nhà nước như: các đơn vị
sự nghiệp kinh tế
để phục vụ cho hoạt động của mỗi ngành và phục vụ chung
cho toàn bộ nền
kinh tế quốc dân là hết sức cần thiết.
76
- Chi cho các hoạt
động quản lý nhà nước như: chi cho hệ thống các cơ quan
lập pháp, tư
pháp và hành pháp và quản lý nhà nước được thiết lập ở cấp Trung
ương và các địa
phương.
- Chi cho các tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức
khác được cấp
kinh phí từ NSNN.
Được xếp vào các
tổ chức này, bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam và
các tổ chức
Chính trị- Đoàn thể - Xã hội như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Mặt trận
Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân tập thể, Hội
Liên hiệp Phụ nữ.
- Chi cho Quốc
phòng - An ninh và trật tự, an toàn xã hội: Phần lớn số
chi ngân sách
Nhà nước cho Quốc phòng - An ninh được tính vào cơ cấu chi
thường xuyên của
ngân sách Nhà nước (trừ chi đầu tư XDCB cho các công trình
quốc phòng, an
ninh). Sở dĩ sắp xếp như vậy là do nhu cầu chi cho Quốc phòng
- An ninh được
coi là tất yếu và phải thường xuyên quan tâm khi còn tồn tại giai
cấp, tồn tại Nhà
nước ở mỗi quốc gia riêng biệt. Như vậy, số chi cho binh sĩ,
cho sĩ quan, cho
vũ khí và khí tài chuyên dụng của các lực lượng vũ trang đều
được tính vào
chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước hàng năm.
- Chi khác:
Ngoài các khoản chi lớn đã được sắp xếp vào 5 lĩnh vực trên,
còn có một số
khoản chi khác cũng được xếp vào cơ cấu chi thường xuyên như:
Chi trợ giá theo
chính sách của Nhà nước, chi hỗ trợ quĩ Bảo hiểm xã hội, phần
chi thường xuyên
thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án Nhà nước
v.v... Mặc dù, nếu
xét riêng từng khoản chi này thì nó không phát sinh đều đặn
và liên tục
trong các tháng của năm ngân sách; nhưng lại được coi là những giao
dịch thường niên
tất yếu của Chính phủ.
Xét theo nội
dung kinh tế của các khoản chi thường xuyên: Nếu phân
loại theo nội
dung kinh tế, thì nội dung chi thường xuyên của ngân sách Nhà
nước bao gồm:
- Các khoản chi
cho con người thuộc khu vực hành chính - sự nghiệp:
Thuộc các khoản
chi cho con người của khu vực hành chính - sự nghiệp, bao
gồm: Tiền lương,
tiền công, phụ cấp, phúc lợi tập thể, tiền thưởng, các khoản
77
đóng góp theo tiền
lương và các khoản thanh toán khác cho cá nhân. Ngoài ra, ở
một số đơn vị đặc
thù là các trường còn có khoản chi về học bổng cho học sinh
và sinh viên
theo chế độ nhà nước đã qui định cho mỗi loại trường cụ thể và
mức học bổng mà
mỗi sinh viên được hưởng cũng được tính trong cơ cấu chi
thường xuyên thuộc
nhóm mục này.
- Các khoản chi
về nghiệp vụ chuyên môn: Hoạt động nghiệp vụ chuyên
môn trong các
đơn vị hành chính - sự nghiệp được đảm bảo bằng nguồn kinh
phí thường xuyên
của ngân sách Nhà nước ở mỗi ngành rất khác nhau.
- Các khoản chi
mua sắm, sửa chữa bao gồm: chi phí để mua sắm thêm
các tài sản (kể
cả tài sản cố định) hay sửa chữa các tài sản đang trong quá trình
sử dụng, nhằm phục
vụ kịp thời cho nhu cầu hoạt động và nâng cao hiệu suất sử
dụng của các tài
sản đó.
Các khoản chi
khác: Thuộc phạm vi các khoản chi khác nằm trong cơ cấu
chi thường xuyên
của ngân sách Nhà nước.
4.2.1.2. Đặc điểm chi
thường xuyên của ngân sách Nhà nước
Thứ nhất, đại bộ
phận các khoản chi thường xuyên mang tính ổn định khá
rõ nét. Những chức
năng vốn có của Nhà nước như: Bạo lực, trấn áp và tổ chức
quản lý các hoạt
động kinh tế, xã hội đều đòi hỏi phải được thực thi cho dù có
sự thay đổi về
thể chế chính trị.
Thứ hai, xét
theo cơ cấu chi ngân sách Nhà nước ở từng niên độ và mục
đích sử dụng cuối
cùng của vốn cấp phát thì đại bộ phận các khoản chi thường
xuyên của ngân
sách Nhà nước có hiệu lực tác động trong khoảng thời gian
ngắn và mang
tính chất tiêu dùng xã hội.
Thứ ba, phạm vi,
mức độ chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước gắn
chặt với cơ cấu
tổ chức của bộ máy Nhà nước và sự lựa chọn của Nhà nước
trong việc cung ứng
các hàng hoá công cộng. Với tư cách là một quỹ tiền tệ tập
trung của Nhà nước,
nên tất yếu quá trình phân phối và sử dụng vốn ngân sách
Nhà nước luôn phải
hướng vào việc đảm bảo sự hoạt động bình thường của bộ
máy Nhà nước đó.
Nếu một khi bộ máy quản lý Nhà nước gọn nhẹ, hoạt động
có hiệu quả thì
số chi thường xuyên cho nó được giảm bớt và ngược lại. Hoặc
78
quyết định của
Nhà nước trong việc lựa chọn phạm vi và mức độ cung ứng các
hàng hoá công cộng
cũng sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến phạm vi và mức độ chi
thường xuyên của
NSNN.
4.2.2.Các nguyên
tắc quản lý chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước
1. Nguyên tắc quản
lý theo dự toán:
Việc đòi hỏi quản
lý chi thường xuyên của NSNN phải theo dự toán là
xuất phát từ những
cơ sở lý luận và thực tiễn sau:
Thứ nhất, hoạt động
của ngân sách Nhà nước, đặc biệt là cơ cấu thu, chi
của ngân sách
Nhà nước phụ thuộc vào sự phán quyết của cơ quan quyền lực
Nhà nước đó. Do
vậy, mọi khoản chi từ ngân sách Nhà nước chỉ có thể trở
thành hiện thực
khi và chỉ khi khoản chi đó đã nằm trong cơ cấu chi theo dự
toán đã được cơ
quan quyền lực Nhà nước xét duyệt và thông qua.
Thứ hai, phạm vi
chi của ngân sách Nhà nước rất đa dạng liên quan tới
nhiều loại hình
đơn vị thuộc nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Mức chi cho
mỗi loại hoạt động
được xác định theo đối tượng riêng, định mức riêng; hoặc
ngay giữa các cơ
quan trong cùng một lĩnh vực hoạt động nhưng điều kiện về
trang bị cơ sở vật
chất có sự khác nhau, quy mô và tính chất hoạt động có sự
khác nhau sẽ dẫn
đến các mức chi từ NSNN cho các cơ quan đó cũng có sự
khác nhau.
Thứ ba, có quản
lý theo dự toán mới đảm bảo được yêu cầu cân đối của
ngân sách Nhà nước;
tạo điệu kiện thuận lợi cho việc điều hành ngân sách Nhà
nước; hạn chế được
tính tuỳ tiện (về nguyên tắc) trong quản lý và sử dụng kinh
phí ở các đơn vị
thụ hưởng ngân sách Nhà nước.
2. Nguyên tắc tiết
kiệm, hiệu quả:
Nguyên tắc tiết
kiệm, hiệu quả chỉ có thể được bảo đảm khi quá trình
quản lý chi thường
xuyên của ngân sách Nhà nước phải làm tốt và làm đồng bộ
một số nội dung
sau:
- Phải xây dựng
được các định mức, tiêu chuẩn chi tiêu phù hợp với từng
đối tượng hay
tính chất công việc; đồng thời lại phải có tính thực tiễn cao.
79
- Phải thiết lập
được các hình thức cấp phát đa dạng và lựa chọn hình
thức cấp phát áp
dụng cho mỗi loại hình đơn vị, hay yêu cầu quản lý của từng
nhóm mục chi một
cách phù hợp.
- Biết lựa chọn
thứ tự ưu tiên cho các loại hoạt động hoặc theo các nhóm
mục chi sao cho
với tổng số chi có hạn nhưng khối lượng công việc vẫn hoàn
thành và đạt chất
lượng cao.
- Khi đánh giá
tính hiệu quả của chi ngân sách Nhà nước phải xem xét
mức độ ảnh hưởng
của mỗi khoản chi thường xuyên tới các mối quan hệ kinh
tế, chính trị,
xã hội khác và phải tính đến thời gian phát huy tác dụng của nó. Vì
vậy, khi nói đến
hiệu quả của chi thường xuyên từ ngân sách Nhà nước người ta
hiểu đó là những
lợi ích về kinh tế - xã hội mà toàn xã hội được thụ hưởng.
3. Nguyên tắc
chi trực tiếp qua Kho bạc Nhà nước:
Chi trực tiếp
qua Kho bạc nhà nước là phương thức thanh toán chi trả có
sự tham gia của
3 bên: Đơn vị sử dụng ngân sách Nhà nước; Kho bạc nhà nước;
tổ chức hoặc cá
nhân được nhận các khoản tiền do đơn vị sử dụng ngân sách
Nhà nước thanh
toán chi trả (gọi chung là người được hưởng) bằng hình thức
thanh toán không
dùng tiền mặt. Cách thức tiến hành cụ thể là: Đơn vị sử dụng
ngân sách Nhà nước
uỷ quyền cho Kho bạc nhà nước trích tiền từ tài khoản của
mình để chuyển
trả vào tài khoản cho người được hưởng ở một trung gian tài
chính nào đó,
nơi người được hưởng mở tài khoản giao dịch.
Để thực hiện được
nguyên tắc chi trực tiếp qua Kho bạc nhà nước cần
phải giải quyết
tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, tất cả
các khoản chi ngân sách Nhà nước phải được kiểm tra,
kiểm soát một
cách chặt chẽ trong quá trình cấp phát, thanh toán.
Thứ hai, tất cả
cơ quan, đơn vị, các chủ dự án ... sử dụng kinh phí ngân
sách Nhà nước phải
mở tài khoản tại Kho bạc nhà nước; chịu sự kiểm tra, kiểm
soát của cơ quan
Tài chính và Kho bạc Nhà nước trong quá trình lập dự toán,
phân bổ dự toán,
cấp phát, thanh toán, hạch toán và quyết toán ngân sách Nhà
nước.
80
Thứ ba, cơ quan
Tài chính các cấp có trách nhiệm xem xét dự toán ngân
sách của các cơ
quan, đơn vị cùng cấp; kiểm tra phương án phân bổ và giao dự
toán của các đơn
vị dự toán cấp trên cho các đơn vị dự toán ngân sách cấp dưới.
Thứ tư, Kho bạc
nhà nước có trách nhiệm kiểm soát các hồ sơ, chứng từ,
điều kiện chi và
thực hiện cấp phát, thanh toán kịp thời các khoản chi ngân sách
Nhà nước theo
đúng qui định; tham gia với các cơ quan Tài chính, cơ quan quản
lý Nhà nước có
thẩm quyền trong việc kiểm tra tình hình sử dụng và xác nhận
số thực chi ngân
sách Nhà nước qua kho bạc của các đơn vị.
Thứ năm, lựa chọn
phương thức cấp phát, thanh toán đối với từng khoản
chi thường xuyên
cho phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, xã hội hiện tại.
4.2.3. Tổ chức
quản lý chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước
4.2.3.1. Xây dựng
định mức chi
Các loại định mức
và yêu cầu đối với định mức chi thường xuyên của ngân sách
Nhà nước:
- Các loại định
mức chi: Trong quản lý các khoản chi thường xuyên của
ngân sách Nhà nước
nhất thiết cần phải có định mức cho từng nhóm mục chi
hay cho mỗi đối
tượng cụ thể. Nhờ đó cơ quan Tài chính mới có căn cứ để lập
các phương án
phân bổ ngân sách, kiểm tra, giám sát quá trình chấp hành, thẩm
tra phê duyệt
quyết toán kinh phí của các đơn vị thụ hưởng. Thông thường định
mức chi thường
xuyên của NSNN được thể hiện ở các dạng sau:
Loại
định mức chi tiết theo từng mục chi của Mục lục ngân sách Nhà
nước (hay còn gọi
là định mức sử dụng).
Loại
định mức chi tổng hợp theo từng đối tượng được tính định mức chi
của ngân sách
Nhà nước (hay còn gọi là định mức phân bổ).
Các yêu cầu đối
với định mức chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước
Trong hoạt động
thực tiễn cả 2 loại định mức chi (định mức sử dụng và
định mức phân bổ)
đã nêu trên đều được sử dụng cho công tác quản lý chi
thường xuyên của
ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, muốn cho định mức trở
thành chuẩn mực
để phân bổ kinh phí hay kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng
81
kinh phí và quyết
toán kinh phí chi thường xuyên thì các định mức chi được xây
dựng phải thoả
mãn các yêu cầu sau đây:
Một là, các định
mức chi phải được xây dựng một cách khoa học.
Hai là, các định
mức chi phải có tính thực tiễn cao.
Ba là, định mức
chi phải đảm bảo thống nhất đối với từng khoản chi và
với từng đối tượng
thụ hưởng NSNN cùng loại hình; hoặc cùng loại hoạt động.
Bốn là, định mức
chi phải đảm bảo tính pháp lý cao.
Tóm lại, để có
thể góp phần chấn chỉnh lại kỷ cương của Nhà nước trong
quản lý tài
chính nói chung và quản lý chi thường xuyên của ngân sách Nhà
nước nói riêng,
đòi hỏi các định mức chi phỉa đáp ứng một cách cao nhất các
yêu cầu trên.
4.2.3.2. Lập dự
toán chi thường xuyên
Dự toán chi thường
xuyên là một bộ phận rất quan trọng của dự toán chi
ngân sách Nhà nước.
Do vậy, khi lập dự toán chi thường xuyên phải dựa trên
những căn cứ
sau:
- Chủ trương của
Nhà nước về duy trì và phát triển các hoạt động thuộc
bộ máy quản lý
Nhà nước, các hoạt động sự nghiệp, hoạt động quốc phòng - an
ninh và các hoạt
động xã hội khác trong từng giai đoạn nhất định. Dựa vào căn
cứ này sẽ giúp
cho việc xây dựng dự toán chi thường xuyên của ngân sách Nhà
nước có một cách
nhìn tổng quát về những mục tiêu và nhiệm vụ mà ngân sách
Nhà nước phải hướng
tới. Trên cơ sở đó mà xác lập các hình thức, các phương
pháp phân phối
nguồn vốn của ngân sách Nhà nước vừa tiết kiệm, vừa đạt hiệu
quả cao.
- Dựa vào các chỉ
tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là
các chỉ tiêu có
liên quan trực tiếp đến việc cấp phát kinh phí chi thường xuyên
của ngân sách
Nhà nước kỳ kế hoạch. Đây chính là việc cụ thể hoá các chủ
trương của Nhà
nước trong từng giai đoạn thành các chỉ tiêu cho kỳ kế hoạch.
Các chỉ tiêu này
của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với các định
mức chi thường
xuyên là những yếu tố cơ bản để xác lập dự toán chi thường
xuyên của ngân
sách Nhà nước.
82
- Khả năng nguồn
kinh phí có thể đáp ứng cho nhu cầu chi thường xuyên
kỳ kế hoạch. Muốn
dự đoán được khả năng này, người ta phải dựa vào cơ cấu
thu ngân sách
Nhà nước kỳ báo cáo và mức tăng trưởng của các nguồn thu kỳ
kế hoạch. Nhờ đó
mà thiết lập mức cân đối tổng quát giữa khả năng nguồn kinh
phí và nhu cầu
chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước.
- Các chính
sách, chế độ chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước hiện
hành và dự đoán
những điều chỉnh hoặc thay đổi có thể xảy ra trong kỳ kế
hoạch. Đây sẽ là
cơ sở pháp lý cho việc tính toán và bảo vệ dự toán chi thường
xuyên của ngân
sách Nhà nước. Đồng thời nó cũng tạo điều kiện cho quá trình
chấp hành dự
toán không bị rơi vào tình trạng hẫng hụt khi có sự điều chỉnh
hoặc thay đổi một
hay một số chính sách, chế độ chi nào đó.
- Kết quả phân
tích, đánh giá tình hình quản lý và sử dụng kinh phí chi
thường xuyên kỳ
báo cáo sẽ cung cấp các thông tin cần thiết cho việc lập dự
toán chi .
4.2.3.3. Chấp
hành dự toán chi thường xuyên
Chấp hành dự
toán chi thường xuyên là một trong những nội dung quan
tọng của chấp
hành dự toán chi ngân sách Nhà nước - khâu thứ hai của chu trình
quản lý ngân
sách Nhà nước. Trong quá trình tổ chức chấp hành dự toán chi
thường xuyên cần
dựa trên những căn cứ sau:
Thứ nhất, dựa
vào mức chi của từng chỉ tiêu (hoặc tổng mức chi nếu đó là
kinh phí đã nhận
khoán) đã được duyệt trong dự toán.
Thứ hai, dựa vào
khả năng nguồn kinh phí có thể dành cho nhu cầu chi
thường xuyên
trong mỗi kỳ báo cáo.
Thứ ba, dựa vào
các chính sách, chế độ chi ngân sách Nhà nước hiện
hành. Đây là căn
cứ mang tính pháp lý cho công tác tổ chức chấp hành dự toán
chi ngân sách
Nhà nước.
4.2.3.4. Quyết
toán, kiểm toán chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước
Công tác quyết
toán các khoản chi thường xuyên của là công việc cuối
cùng trong mỗi
chu trình quản lý các khoản chi thường xuyên nói riêng và chi
nói chung. Nó
chính là quá trình nhằm kiểm tra, rà soát, chỉnh lý lại các số liệu
83
đã được phản ánh
sau một kỳ chấp hành dự toán để phân tích, đánh giá kết quả
chấp hành dự
toán, rút ra những kinh nghiệm và bài học cần thiết cho kỳ chấp
hành dự toán tiếp
sau. Bởi vậy, trong quá trình quyết toán các khoản chi thường
xuyên phải chú ý
đến các yêu cầu cơ bản sau:
- Phải lập đầy đủ
các loại báo cáo tài chính và gửi kịp thời các loại báo
cáo đó cho các
cơ quan có thẩm quyền xét duyệt theo đúng chế độ đã qui định.
- Số liệu trong
các báo cáo phải đảm bảo tính chính xác, trung thực. Nội
dung các báo cáo
tài chính phải theo đúng các nội dung ghi trong dự toán được
duyệt và theo
đung mục lục NSNN đã qui định.
- Báo cáo quyết
toán năm của các đơn vị dự toán các cấp và của ngân
sách các cấp
chính quyền trước khi trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê
chuẩn phải có
xác nhận của Kho bạc nhà nước đồng cấp.
- Thủ trưởng các
đơn vị dự toán cấp trên có trách nhiệm kiểm tra và duyệt
quyết toán thu,
chi ngân sách của các đơn vị trực thuộc, chịu trách nhiệm về
quyết toán đã
duyệt; lập quyết toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý
gửi cơ quan Tài
chính cùng cấp.
- Báo cáo quyết
toán của các đơn vị dự toán không được để xảy ra tình
trạng quyết toán
chi lớn hơn thu.
- Cơ quan Kiểm
toán Nhà nước thực hiện kiểm toán, xác định tính đúng
đắn, hợp pháp của
báo cáo quyết toán NSNN các cấp, cơ quan, đơn vị có liên
quan theo qui định
của pháp luật.
5. QUẢN LÝ CÂN ĐỐI
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
5.1. Lý luận cơ
bản về cân đối ngân sách Nhà nước
5.1.1. Khái niệm
cân đối ngân sách Nhà nước
Trong tiếng Việt
"cân đối" có thể là danh từ, động từ, hoặc tính từ. Với tư
cách một danh từ,
cân đối ngân sách Nhà nước là mối quan hệ cân bằng giữa
tổng thu và tổng
chi ngân sách Nhà nước.
Với tư cách một
động từ, cân đối ngân sách Nhà nước có nghĩa là làm
cho tổng thu và
tổng chi ngân sách Nhà nước được cân bằng.
84
Với tư cách một
tính từ, ngân sách Nhà nước cân đối có nghĩa là tổng thu
và tổng chi có
tương quan cân bằng.
Cân đối ngân
sách Nhà nước nhằm mục đích đảm bảo tài chính cho Nhà
nước thực hiện
được tốt nhất chức năng, nhiệm vụ của mình, chứ không phải
đơn giản chỉ để
tổng thu và tổng chi bằng nhau.
Cân đối ngân
sách Nhà nước phải đảm bảo không chỉ cho tổng thu cân
bằng với tổng
chi, mà còn phải đảm bảo cho cơ cấu thu, chi hợp lý; mối quan hệ
về lượng giữa
thu chi ngân sách Nhà nước và thực trạng nền kinh tế; mối quan
hệ hợp lý giữa
ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương v.v…
Trong thực tiễn,
cân đối ngân sách Nhà nước luôn ở trong trạng thái vận
động, không ngừng
phát sinh mâu thuẫn giữa thu và chi, cũng như giữa các bộ
phận cấu thành
ngân sách Nhà nước v.v…
5.1.2. Một số học
thuyết về cân đối ngân sách Nhà nước
1. Lý thuyết cổ
điển về sự thăng bằng ngân sách
Nguyên tổng thống
Pháp G.Doumergue, trong một bài diễn văn đọc năm
1934 đã tóm tắt
lý thuyết cổ điển này như sau: "Như bà nội trợ, đi chợ, không
được tiêu quá số
tiền có trong túi. Quốc gia cũng trong tình hình y hệt, không
được tiêu quá số
tiền thu được". Nói cách khác, mỗi năm ngân sách, tổng số thu
phải ngang tổng
số chi. Có hai lý do:
Trước hết, tổng
số chi không được quá tổng số thu. Nếu chi vượt quá số
thu, Nhà nước phải
tìm ra tiền để thoả mãn các nhu cầu chi tiêu. Nhưng vì các
khoản thu không
đủ bù đắp các khoản chi, nên phải vay nợ ngắn hạn. Điều này
xảy ra thì ngân
sách của năm nay và những năm sau có nguồn thu mới để bù
đắp thâmhụt và
hoàn trả tiền vay hay không phụ thuộc rất nhiều vào thực trạng
của nền kinh tế.
Trong trường hợp
ngân sách bị chi ngân lớn và kéo dài, thường là Nhà
nước phải phá
giá đơn vị tiền tệ. Sử dụng giải pháp này, Nhà nước sẽ "chiếm"
số lãi do phá
giá tiền mang lại và trang trải được hết hay một phần nào đó của
số nợ. Nhưng, một
sự phá giá lớn đơn vị tiền tệ sẽ gây ra mức lạm phát nguy hại
cho nền kinh tế.
85
Thứ hai, tổng số
thu ngân sách cũng không được lớn hơn tổng số chi ngân
sách.
Khi số thu lớn
hơn số chi sẽ gây hại cho đất nước trên cả hai phương
diện: Kinh tế và
tài chính.
Về phương diện
kinh tế, khi số thu lớn hơn số chi và giả sử không mang
ra chi tiêu, tức
là để dành. Số tiền này không sinh lời, nền kinh tế sẽ mất một
phần lợi tức, một
số sản phẩm tạo ra không bán được, một số doanh nghiệp thu
hẹp hoặc ngừng
hoạt động, nền kinh tế có thể bị đình trệ.
Về phương diện
chính trị, khi số thu lớn hơn số chi, xu hướng là số thu
trội sẽ bị chi
tiêu hết, mà nhiều khi còn vượt quá. Hơn nữa, còn có thể dẫn đến
tâm lý quản lý
ngân sách Nhà nước một cách dễ dãi, gây ra sự lãng phí và bất
bình của xã hội
đối với Nhà nước.
Nội dung thăng bằng
ngân sách được thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, tổng số
các khoản thu vào ngang với tổng số các khoản chi ra.
Thứ hai, một
ngân sách thăng bằng không được dùng đến công trái, trừ
khi phải xuất tiền
ra để thực hiện những nhiệm vụ to lớn của đất nước.
Tất cả các khoản
chi tiêu thường xuyên của Nhà nước phải do thuế tài trợ.
Lý thuyết cổ điển
cho là không chính đáng khi Nhà nước đứng lên vay để chi
tiêu thường
xuyên. Vay ngắn hạn chỉ chính đáng khi nào ngân sách Nhà nước
cần tiền mặt và
trong thời gian ngắn có thể hoàn trả một cách chắc chắn.
Công trái chỉ có
ý nghĩa về phương diện kinh tế khi được đem dùng để tài
trợ cho sản xuất,
chế tạo ra sản phẩm mới. Vậy, Nhà nước cóthể vay tiền dài
hạn để đầu tư.
Trong hoàn cảnh chiến tranh, Nhà nước cũng có thể vay nợ để
chi tiêu cho quốc
phòng, vì đó là vấn đề sống còn của cả nước.
2. Lý thuyết về
ngân sách chu kỳ
Từ đầu thế kỷ 19
tới nay, thông thường nền kinh tế thị trường trải qua
một chuỗi các
chu kỳ, mỗi chu kỳ gồm có một thời kỳ thịnh vượng và một thời
kỳ suy thoái.
Ở thế kỷ 19,
ngân sách Nhà nước chiếm một tỷ trọng rất nhỏ so với tổng
sản phẩm trong
nước. Vì vậy, mối quan hệ giữa ngân sách Nhà nước và chu kỳ
86
nền kinh tế còn
chưa chặt chẽ. Lý thuyết thăng bằng ngân sách tỏ ra thích ứng
với thời kỳ này.
Sang đầu thế kỷ
20, quan hệ giữa ngân sách Nhà nước và chu kỳ nền
kinh tế rất chặt
chẽ. Trong mỗi thời kỳ của chu kỳ kinh tế, thu, chi ngân sách rất
khác nhau, dẫn đến
việc thực thi ngân sách thăng bằng triệt để có thể đi ngược
với những đòi hỏi
của một chu kỳ kinh tế. Từ đó nảy ra lý thuyết: Sự thăng bằng
của ngân sách sẽ
không duy trì trong một khuôn khổ một năm, mà sẽ duy trì
trong khuôn khổ
của một chu kỳ kinh tế.
Thực hiện lý
thuyết này, các nhà kinh tế đưa ra các phương pháp sau đây:
Thứ nhất, Tạo lập
một quỹ dự trữ trong giai đoạn thịnh vượng, nhằm đề
phòng những năm
thiếu hụt của thời kỳ suy thoái, nhưng phải tránh 2 điều:
Không để tiền nằm
yên không vận động, chính phủ có thể sử dụng số tiền của
quỹ này để trả dần
cho các chủ nợ của mình, nhưng nên tránh quá nhiều một lúc
cho dân chúng
(gây biến động về giá cả).
Thứ hai, Trong
giai đoạn kinh tế suy thoái không tìm cách thăng bằng
ngân sách mà
trái lại, cố ý tạo ra một tình trạng mất thăng bằng, nghĩa là chi tiêu
nhiều hơn. Tình
trạng này khơi mào, châm ngòi cho sự phục hồi kinh tế. Khi
nền kinh tế đã
thịnh vượng, sự không thăng bằng của ngân sách năm cũ sẽ được
đền bù bằng những
khoản thu trội của ngân sách các năm thịnh vượng.
Chỉ từ ngày các
Nhà nước can thiệp mạnh vào nền kinh tế, nhất là từ sau
Chiến tranh thế
giới thứ II, chu kỳ kinh tế mất đi tính đều đặn, lý thuyết về ngân
sách chu kỳ mới
không còn mang tính thời sự nữa.
3. Lý thuyết về
ngân sách cố ý thiếu hụt
Trong đời sống của
một nước, kinh tế quyết định tài chính, còn tài chính
có tác động mạnh
mẽ trở lại đối với kinh tế. Lý thuyết cổ điển đã chỉ ra, muốn
thăng bằng ngân
sách trong giai đoạn suy thoái thì hoặc giảm chi hoặc tăng thu.
Hai phương pháp
khắc phục này chỉ ảnh hưởng vào nền kinh tế như hai cái
"máy
hãm", khiến cho nền kinh tế đã trì trệ lại càng trì trệ hơn. Để tránh ảnh
hưởng kìm hãm
đó, người ta đã hy sinh thăng bằng ngân sách, chi tiêu ra nhiều
hơn để gây và
khơi mào cho sự phục hồi kinh tế. Giáo sư Barrere đã mô tả lý
87
thuyết này: Đem
đối lập với sự mất thăng bằng kinh tế một sự bất thăng bằng tài
chính ngược hướng.
Có thể nói, tác
động xấu và nguy hại nhất của chính sách này là nạn lạm
phát. Bởi vì muốn
có tiền để tài trợ cho những chương trình trong giai đoạn
kinh tế suy
thoái, Nhà nước có thể in thêm giấy bạc. Mặc dù thực thi lý thuyết
này có thể gây
hiểm hoạ cho nền kinh tế, nhưng sự thúc đẩy những hoạt động
kinh tế đang
đình trệ sẽ làm nhẹ gánh nặng của ngân sách. Việc mở mang
những hoạt động
kinh tế sẽ tạo thêm nhiều việc làm, do vậy ngân sách sẽ bớt
được những khoản
chi chuyển nhượng. Hơn nữa, trong nền kinh tế đang phát
triển, đánh thuế
luỹ tiến sẽ thu hút phần lớn hơn trong khoảng lợi tức cao. Ngân
sách bơm tiền
ra, có ảnh hưởng đối với nền kinh tế như là một động cơ phụ. Khi
nền kinh tế đã
phục hồi trở lại thì Chính phủ phải để cho nó tự vận hành và có
thể để cho động
cơ phụ này nghỉ hoạt động.
Lý thuyết này đã
được nhiều nước thực nghiệm như Anh, Đức, Pháp…
và đã mang lại
những kết quả đáng khích lệ. Nhưng, không phải lúc nào cũng có
thể thi hành được
chính sách ngân sách cố ý thiếu hụt. Khi thực hiện chính sách
này, phải nắm được
những giới hạn của nó.
Thuyết về ngân
sách cố ý thiếu hụt không thể thay thế vĩnh viễn thuyết
ngân sách thăng
bằng; mẫu mực cần hướng tới vẫn là một ngân sách thăng
bằng. Lý thuyết
ngân sách cố ý thiếu hụt chỉ là một ngoại lệ quan trọng của lý
thuyết ngân sách
thăng bằng. Sự thiếu hụt này phải có giới hạn của nó, không
được vĩnh viễn
và phải được theo dõi chặt chẽ. Sự cố ý thiếu hụt có tác dụng
thúc đẩy một nền
kinh tế ra khỏi tình trạng đình trệ. Song, khi nền kinh tế đã bắt
đầu chuyển động
thì Nhà nước phải giảm dần những chi phí đầu tư, dần dần
tăng thu để làm
cho ngân sách trở lại thế thăng bằng.
Theo Keynes thì
tình trạng thất nghiệp là dấu hiệu cho biết lúc nào nên
thi hành hoặc chấm
dứt chính sách ngân sách cố ý thiếu hụt. Theo kinh nghiệm
của nước Anh và
một số nước khác, khi nào tỷ lệ thất nghiệp lớn hơn 3%, Nhà
nước có thể thực
thi chính sách cố ý thiếu hụt. Khi tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn
hoặc bằng 3% thì
Nhà nước phải cố gắng gây lại mức thăng bằng của ngân sách.
88
Khi nền kinh tế
có mức thất nghiệp thấp thì sự gia tăng của chi tiêu sẽ không
hiệu quả và lãng
phí.
5.1.3.Bội chi
ngân sách Nhà nước
1. Khái niệm về
bội chi ngân sách Nhà nước
Bội chi ngân
sách Nhà nước trong một năm là số chênh lệch giữa chi lớn
hơn thu của năm
đó.
Để tính đúng về
bội chi ngân sách Nhà nước, xét trên phương diện lý luận
phải loại trừ
các khoản thu sau:
- Số thu về các
khoản vay nợ, bởi vì các khoản vay phải có trách nhiệm
hoàn trả.
- Viện trợ không
hoàn lại hàng năm từ các chính phủ và tổ chức quốc tế
có tác dụng làm
giảm bội chi ngân sách Nhà nước.
- Việc thu hồi
hàng năm tiền nợ Nhà nước đã cho vay không được tính là
một khoản thu của
ngân sách Nhà nước. Vì vậy, trong công thức tính bội chi
ngân sách Nhà nước,
số chi không thể bao gồm toàn bộ doanh số cho vay của
Nhà nước, mà chỉ
gồm cho vay ròng. Cho vay ròng hàng năm của Nhà nước là
chênh lệch giữa
số cho vay ra và số đã thu hồi nợ trong năm.
Đến đây chúng ta
có thể đưa ra một cách tóm tắt báo cáo về ngân sách
Nhà nước hàng
năm như sau:
Ngân sách Nhà nước
hàng năm
Thu Chi
A. Thu thường
xuyên (thuế, phí, lệ phí) D. Chi thường xuyên
B. Thu về vốn
(bán tài sản Nhà nước)
C. Bù đắp bội
chi E. Chi đầu tư
Viện trợ F. Cho
vay thuần (= cho vay
Lấy từ nguồn dự
trữ mới - thu nợ gốc)
Vay thuần (= vay
mới - trả nợ gốc)
A + B + C = D +
E + F
Dựa trên sự phân
tích nói trên, có thể đưa ra công thức tính bội chi ngân
sách Nhà nước
theo thông lệ quốc tế của một năm như sau:
89
Bội chi
Ngân sách = tổng
chi - tổng thu = (D + E + F) - (A + B) = C (1)
Nhà nước
Công thức (1) ở
trên cho thấy bức tranh tổng quát về tình hình ngân sách
Nhà nước. Kết quả
của nó có thể dùng để phân tích tác động của bôi chi ngân
sách Nhà nước đến
tình hình tiền tệ, cầu trong nước và cán cân thanh toán. Tuy
vậy, cách tính của
công thức (1) cũng còn có hạn chế. Những mức bội chi như
nhau là kết quả
của công thức (1) có thể gây ra những tác động hoàn toàn khác
nhau, vì chúng
còn phụ thuộc nhiều vào cơ cấu thu, chi; nguồn bù đắp bội chi.
Đi liền với mức
bội chi tuyệt đối, cần xác định chỉ tiêu tỷ lệ phần trăm bội
chi so với GDP.
Đây là chỉ số tổng hợp về tình hình ngân sách Nhà nước và là
chỉ số được sử dụng
rộng rãi để phản ánh tình hình ngân sách Nhà nước của một
quốc gia. Có nhiều
cách tính khác nhau để đo lường (gần đúng) hiện tượng bội
chi ngân sách
Nhà nước. Nhưng dù cách tính nào, cũng phải xem xét kết hợp
với cơ cấu thu,
chi của ngân sách Nhà nước. Có như vậy mới thấy được tác
động của bội chi
ngân sách Nhà nước đối với nền kinh tế xã hội.
2. Nguyên nhân bội
chi ngân sách Nhà nước và nguồn bù đắp
Có hai nhóm
nguyên nhân gây ra bội chi ngân sách Nhà nước.
Nhóm nguyên nhân
khách quan:
Tác động của chu
kỳ kinh doanh là nguyên nhân cơ bản nhất trong số các
nguyên nhân khách
quan gây ra bội chi ngân sách Nhà nước. Khủng hoảng làm
cho thu nhập của
Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên (để giải quyết
những khó khăn mới
về kinh tế và xã hội). Điêu đó làm cho mức bội chi ngân
sách Nhà nước
tăng lên. Ở giai đoạn kinh tế thịnh vượng, thu của Nhà nước sẽ
tăng lên, trong
khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội
chi ngân sách
Nhà nước.
Nhưng nguyên
nhân khách quan khác có thể kể ra như thiên tai, địch hoạ
v.v… Nếu gây tác
hại lớn cho nền kinh tế thì chúng sẽ là những nguyên nhân
làm giảm thu,
tăng chi và dẫn tới bội chi ngân sách Nhà nước.
Nhóm nguyên nhân
chủ quan:
90
Tác động của
chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước là nguyên nhân cơ
bản nhất trong số
các nguyên nhân chủ quan gây ra bội chi ngân sách Nhà nước.
Khi Nhà nước thực
hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ
làm tăng mức bội
chi ngân sách Nhà nước. Ngược lại, thực hiện chính sách
giảm đầu tư và
tiêu dùng của Nhà nước thì mức bội chi ngân sách Nhà nước sẽ
giảm bớt.
Những nguyên
nhân chủ quan khác như sai lầm trong chính sách, trong
công tác quản lý
kinh tế - tài chính v.v… làm cho nền kinh tế trì trệ cũng có thể
dẫn tới bội chi
ngân sách Nhà nước.
Trong điều kiện
bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai
lớn…), tổng hợp
của bội chi do chu kỳ và bội chi do cơ cấu sẽ là bội chi ngân
sách Nhà nước.
Bội chi ngân
sách Nhà nước tác động đến kinh tế vĩ mô phụ thuộc nhiều
vào cách bù đắp
bội chi. Mỗi cách bù đắp đều làm ảnh hưởng đến cân đối kinh
tế vĩ mô.
Nếu Nhà nước
phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội thu ngân sách
Nhà nước sẽ kéo
theo lạm phát.
Nếu vay nước
ngoài quá nhiều sẽ kéo theo vấn đề phụ thuộc nước ngoài.
Nếu giảm dự trữ
ngoại hối quá nhiều, làm cạn dự trữ quốc gia sẽ dẫn đến
khủng hoảng tỷ
giá.
Nếu vay quá nhiều
trong nước sẽ làm tăng lãi suất, và cái vòng nợ- trả lãi
- bội chi sẽ làm
tăng mạnh các khoản nợ công chúng.
Vay nợ (trong nước,
ngoài nước) được xem là giải pháp bù đắp bội chi
ngân sách Nhà nước
một cách hữu hiệu. Kinh nghiệm mấy chục năm cải cách
của Trung Quốc
cho hay tỷ lệ giữa nợ trong nước và nước ngoài nên ở mức 1,4:
1. Tuy vậy, mức
độ nợ phải nằm trong giới hạn hợp lý.
5.2.Tổ chức cân
đối ngân sách Nhà nước
Quá trình thu
chi ngân sách Nhà nước bao giờ cũng ở trong trạng thái
biến đổi không ngừng
và chuyển hoá giữa cân đối - không cân đối, không cân
91
đối - cân đối…
Trong chính sách ngân sách, chúng ta hướng tới một ngân sách
Nhà nước
"cân bằng thu, chi" (thu không bao gồm các khoản vay nợ).
5.2.1. Nguyên tắc
thực hiện cân đối ngân sách Nhà nước ở nước ta
Theo Luật ngân
sách Nhà nước 2002(1) thì:
Ngân sách Nhà nước
được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế,
phí và lệ phí phải
lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày
càng cao vào chi
đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải
nhỏ hơn số chi đầu
tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách.
Bội chi ngân
sách Nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và
ngoài nước. Vay
bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc
không sử dụng cho
tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo
đảm bố trí ngân
sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn.
Về nguyên tắc,
ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không
vượt quá tổng số
thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu
cầu đầu tư xây dựng
công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp
tỉnh bảo đảm,
thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh
quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách
cấp tỉnh năm dự
toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân đối
ngân sách cấp tỉnh
hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ
nguồn vốn huy động
không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong
nước hàng năm của
ngân sách cấp tỉnh.
5.2.2. Biện pháp
quản lý tài chính để cân đối ngân sách Nhà nước.
Trong khâu lập dự
toán ngân sách Nhà nước.
Ngay từ khâu lập
dự toán, thu ngân sách Nhà nước phải được xác định
trên cơ sở tăng
trưởng kinh tế, chi ngân sách Nhà nước phải đảm bảo các mục
tiêu phát triển kinh
tế xã hội, quản lý Nhà nước, đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Dự toán ngân
sách của các đơn vị dự toán, của các cấp chính quyền, các
bộ ngành được
xây dựng theo chế độ, tiêu chuẩn, định mức và lập chi tiết theo
mục lục ngân
sách Nhà nước.
1 Xem điều 8, Luật
NSNN năm 2002
92
Dự toán ngân
sách của các cấp được tổng hợp theo từng loại thu, từng
lĩnh vực chi
theo cơ cấu giữa chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả nợ.
Dự toán ngân
sách của các Bộ, cơ quan Trung ương, các cấp chính quyền địa
phương, các cơ
quan quản lý Nhà nước ở địa phương được tổng hợp theo ngành
kinh tế, và địa
bàn lãnh thổ. Dự toán ngân sách các cấp được đảm bảo cân đối
theo nguyên tắc
do luật ngân sách Nhà nước quy định.
Để cân đối ngân
sách Nhà nước, trong những trường hợp nhất định, có
thể phải có sự
điều chỉnh dự toán ngân sách Nhà nước năm.
Trường hợp có biến
động lớn về ngân sách so với dự toán đã phân bổ cần
phải điều chỉnh
tổng thể, Chính phủ lập dự án điều chỉnh ngân sách Nhà nước
trình Quốc hội,
Uỷ ban nhân dân lập dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương
trình Hội đồng
nhân dân theo quy trình lập, quyết định sử dụng quy định tại luật
ngân sách Nhà nước
2002.
Trường hợp có
yêu cầu cấp bách về quốc phòng, an ninh hoặc vì lý do
khách quan cần
phải điều chỉnh nhiệm vụ thu, chi của một số cơ quan, đơn vị,
địa phương, song
không làm biến động lớn đến tổng thể và cơ cấu ngân sách,
Chính phủ trình
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh dự toán ngân
hàng Nhà nước và
báo cáo Quốc hội, Uỷ ban nhân dân quyết định điều chỉnh dự
toán ngân sách địa
phương.
Để chủ động cân
đối ngân sách Nhà nước, dự toán chi ngân sách Trung
ương và ngân
sách các cấp chính quyền địa phương được bố trí khoản dự phòng
từ 2% đến 5% tổng
số chi nhằm đáp ứng các nhu cầu chi phát sinh đột xuất
trong năm ngân
sách. Dự phòng ngân sách được sử dụng để khắc phục hậu quả
thiên tai, địch
hoạ và trong trường hợp phát sinh nhu cầu chi cấp thiết chưa
được bố trí đủ dự
toán ngân sách được giao. Chính phủ quyết định sử dụng dự
phòng ngân sách
trung ương, định kỳ báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội, báo
cáo Quốc hội tại
kỳ họp gần nhất. Uỷ ban nhân dân quyết định sử dụng dự
phòng ngân sách
địa phương, định kỳ báo cáo Thường trực Hội đồng nhân dân,
báo cáo Hội đồng
nhân dân tại kỳ họp gần nhất. Đối với cấp xã, Uỷ ban nhân
93
dân quyết định sử
dụng dự phòng ngân sách xã, định kỳ báo cáo Chủ tịch, Phó
chủ tịch Hội đồng
nhân dân, báo cáo Hội đồng nhân dân tại kỳ họp gần nhất.
Việc sử dụng dự
phòng ngân sách phải tuân thủ các điều kiện về chi ngân
sách Nhà nước,
và quy trình cấp phát quy định theo luật ngân sách Nhà nước và
các văn bản hướng
dẫn thực hiện luật này.
Trong khâu chấp
hành ngân sách Nhà nước.
Để khắc phục
tính thời vụ của ngân sách Nhà nước, đảm bảo các nhu cầu
chi khi nguồn
thu chưa tập trung kịp thời, Chính phủ, UBND tỉnh được lập quỹ
dự trữ tài chính
từ các nguồn: tăng thu, kết dư ngân sách, bố trí trong dự toán
chi ngân sách
hàng năm và các nguồn tài chính khác theo quy định của pháp
luật. Quỹ dự trữ
tài chính chỉ được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu chi khi
nguồn thu chưa tập
trung kịp và phải hoàn trả ngay trong năm ngân sách; trường
hợp đã sử dụng hết
dự phòng ngân sách thì được sử dụng quỹ dự trữ tài chính
để chi theo quy
định của Chính phủ nhưng tối đa không quá 30% số dư của quỹ.
Trường hợp nguồn
thu và các khoản vay trong kế hoạch của ngân sách
Trung ương không
tập trung kịp thời theo tiến độ kế hoạch, sau khi đã sử dụng
quỹ dự trữ tài
chính vẫn không đáp ứng nhu cầu chi, Bộ tài chính được tạm ứng
vốn của ngân
hàng Nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và phải
hoàn trả trong
năm, trừ trường hợp đặc biệt do Uỷ ban thường vụ Quốc hội
quyết định.
Trong quá trình
tổ chức cân đối ngân sách Nhà nước, cần phải khai thác
các ngùôn thu một
cách hợp lý, chống thất thoát nguồn thu của ngân sách Nhà
nước, kiểm soát
chặt chẽ các khoản chi, đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả; mọi tài
sản được đầu tư,
mua sắm bằng nguồn ngân sách Nhà nước và tài sản khác của
Nhà nước phải được
quản lý theo đúng chế độ quy định.
Việc ban hành và
thực hiện các văn bản pháp luật mới làm tăng chi hoặc
giảm thu ngân
sách trong năm phải có nguồn tài chính đảm bảo.
Trong quá trình
chấp hành ngân sách Nhà nước, nếu có sự thay đổi về
thu, chi, Thủ tướng
Chính phủ và chủ tịch UBND các cấp thực hiện như sau:
94
Nếu tăng thu hoặc
tiết kiệm chi so với dự toán được duyệt thì số tăng thu
hoặc tiết kiệm
chi được dùng để giảm bội chi, tăng chi trả nợ hoặc để bổ sung
quỹ dự trữ tài
chính, hoặc chi một số khoản cần thiết khác, nhưng không được
chi về quỹ tiền
lương, trừ trường hợp đặc biệt được cấp có thẩm quyền cho
phép.
Nếu giảm thu so
với dự toán được duyệt thì phải sắp xếp lại để giảm một
số khoản chi
tương ứng.
Nếu có nhu cầu
so với dự toán được duyệt thì phải sắp xếp lại để giảm
một số khoản chi
tương ứng.
Nếu có nhu cầu
chi đột xuất ngoài dự toán nhưng không thể trì hoãn được
mà nguồn dự
phòng không đủ đáp ứng thì phải sắp xếp lại các khoản chi, để có
nguồn đáp ứng
nhu cầu chi đột xuất đó.
Khi thực hiện việc
tăng, giảm thu, chi, Thủ tướng Chính phủ (đối với
ngân hàng TƯ),
chủ tịch UBND (đối với ngân sách địa phương) phải báo cáo
Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân cùng cấp vào kỳ
họp gần nhất.
Phân cấp quản lý
ngân sách Nhà nước phải bảo đảm các nguyên tắc theo
luật định. Phân
cấp đúng đắn vừa bảo đảm duy trì tính thống nhất của Nhà
nước, vai trò chủ
đạo của Trung ương, vừa tăng cường tính chủ động và trách
nhiệm của các cấp
chính quyền địa phương, các bộ, ngành, các đơn vị sử dụng
ngân sách Nhà nước.
Đó cũng là yếu tố quan trọng để thực hiện cân đối ngân
sách Nhà nước một
cách tích cực.
Khi nhận được số
phân bổ về ngân sách, các Bộ, cơ quan Trung ương,
các tỉnh cần làm
tốt công tác giao nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc cấp dưới.
Về thu ngân sách
Nhà nước: Căn cứ mức thu Thủ tướng chính phủ giao,
các bộ, cơ quan
Trung ương, các tỉnh và tổng cục Hải quan cần khẩn trương làm
tốt công tác
giao dự toán thu cho các đơn vị trực thuộc và cấp dưới. Mức giao
tối thiểu phải bằng
mức Thủ tướng chính phủ giao.
Về chi ngân sách
Nhà nước. Chính phủ sẽ giao dự toán chi ngân sách
Trung ương cho
các bộ, cơ quan Trung ương tối đa bằng mức dự toán theo
95
phương án phân bổ
đã được Quốc hội thông qua. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố thuộc Trung
ương giao dự toán chi cho các dơn vị trực thuộc tối đa là 100%
dự toán chi thường
xuyên và cho ngân sách cấp dưới bằng mức 100% theo
phương án phân bổ
dự toán chi ngân sách địa phương, uỷ ban nhân dân huyện
giao cho đơn vị
trực thuộc cũng tối đa là 100% theo phương án phân bổ dự toán
chi ngân sách đã
được Hội đồng nhân dân quyết định.
Những khoản chi
trong dự toán và có nguồn thu bảo đảm phải được cấp
phát đúng đủ, kịp
thời theo tiến độ, các cấp, các ngành, cơ quan tài chính không
được gây trì trệ,
dồn chi vào cuối quý, cuối năm.
Trong khâu quyết
toán ngân sách Nhà nước
Trong thời gian
chỉnh lý quyết toán: Hạch toán tiếp các khoản thu, chi
ngân sách Nhà nước
phát sinh từ 31/12 trở về trước nhưng chứng từ còn đi trên
đường; hạch toán
tiếp các khoản chi ngân sách Nhà nước thuộc nhiệm vụ chi
của năm trước nếu
được cấp có thẩm quyền quyết định cho chi tiếp vào niên độ
ngân sách Nhà nước
năm trước; đối chiếu và điều chỉnh những sai sót trong quá
trình hạch toán
kế toán.
Trong khâu quyết
toán sẽ phải đánh giá hoạt động ngân sách Nhà nước
năm đã qua,
trong đó có vấn đề tổ chức cân đối ngân sách Nhà nước…, nhằm
rút ra kinh nghiệm
tốt áp dụng cho năm tiếp theo.
Thật ra, tổ chức
cân đối ngân sách Nhà nước cũng chỉ là một trong những
nội dung quan trọng
của quá trình lập, chấp hành và quyết toán ngân sách Nhà
nước. Tất cả các
giải pháp về kinh tế, tài chính, tổ chức v.v… để thực hiện tốt
việc lập, chấp
hành và quyết toán ngân sách Nhà nước cũng là những giải pháp
để tổ chức cân đối
ngân sách Nhà nước. Ngược lại, làm tốt việc tổ chức tốt cân
đối ngân sách
Nhà nước, sẽ góp phần thực hiện tốt việc quản lý ngân sách Nhà
nước.
96
Câu hỏi ôn tập
và thảo luận chương 2:
1. Ngân sách Nhà
nước là gì ? Trình bầy các cách phân loại thu chi ngân
sách Nhà nước và
tácdụng .
2. Trình bầy các
nguyên tắc và nội dung phân cấp quản lý ngân sách Nhà
nước. Liên hệ
tình hình thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
3. Trình bầy những
nội dung cơ bản về quản lý chu trình quản lý ngân sách
Nhà nước. Liên hệ
tình hình thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
4. Trình bầy những
nội dung cơ bản về quản lý thu ngân sách Nhà nước.
Liên hệ tình
hình thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
5. Trình bầy những
nội dung cơ bản về quản lý chi ngân sách Nhà nước.
Liên hệ tình
hình thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
6. Trình bầy những
nội dung cơ bản về quản lý cân đối ngân sách Nhà
nước. Liên hệ
tình hình thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
97
rất hay
Trả lờiXóa